Chuyện về một dòng sông
Mưa bay lá đổ, đò vẫn âm thầm cậm sào trên bến đợi. Không có gốc đa, không có quán nước, không có cả chút mái dù che mưa nắng…lẻ loi...
Mưa bay lá đổ, đò vẫn âm thầm cậm sào trên bến đợi. Không có gốc đa, không có quán nước, không có cả chút mái dù che mưa nắng…lẻ loi một bóng hình. Và, khách bộ hành không phải lúng túng trước sông nước - dòng sông mênh mông, không sóng; chỉ có tiếng thì thầm vọng lên từ đáy sâu - khách qua sông, lên bờ, dúi mấy ngàn bạc vào tay người cầm lái, quên cả lời cảm ơn. Mái chèo đều đặn khua, không ai nhìn thấy gương mặt người đưa đò.
Anh ngồi đấy - giữa lòng thuyền, giữa lòng sông - đêm: sương lạnh và thanh vắng, gió lùa từng hồi nghe buốt xương; anh lắng nghe tiếng vọng thì thầm từ đáy sâu; anh mỉm cười với dòng nước lạnh lẽo, vốc một vốc nước ấp vào mặt; lạ kì, anh nghe một cảm giác ấm áp.
Hôm ấy, mưa trắng trời, mưa như trút hết một lần rồi không bao giờ được mưa nữa. Những người đi đường thật tội nghiệp, ướt lướt thướt….và không có ai đưa đò. Hôm ấy, mơ hồ từ cõi tâm linh nào, ai dẫn lối mà chân anh cứ bước…anh bỏ chiếc ghe nhỏ chênh vênh, lắt lẻo nơi đầu bến với sợi dây thừng gầy guộc…anh đi, đi đến một khu vườn hoang; khu vườn chỉ toàn chuối là chuối, chuối ngã nghiêng, chuối đứng thẳng, chuối oằn buồng trái to trái nhỏ, trái chín trái xanh, chim chuột mổ, cắn tung tóe ra những vỏ là vỏ dưới những trảng đất sậm màu…khu vườn ma với hơn chục ngôi mộ của một đại gia đình bị cướp tấn công; khu vườn không ai dám bước chân vào. Anh cứ đưa tay vẹt ngang những tán lá, những trảng cỏ cao ngất…và bước, da thịt trầy xước, tứa máu…anh cứ bước…anh đã đứng phía sau ngôi nhà hoang. Ngôi nhà cột đúc ba gian, tường ngói rêu phong, cỏ lan đầy trên mái; khoảng sân rộng mờ mịt um tùm dây leo với những chậu kiểng nhỏ to nghiêng ngửa… anh đi một vòng quanh nhà; cửa trước cửa sau đều khóa kín, anh bước lên mấy bậc tam cấp, vung chân đá mạnh vào cửa, tiếng chân anh dội ngược khô khốc, cửa nhà được làm bởi gỗ thông dày có hơn hai tấc, thời gian và mưa nắng có cho chút bạc màu, nhưng không cho sự ngã đổ dễ dàng, tấm cửa vẫn sừng sửng hiên ngang, vô cùng chắc chắn; trên mặt cửa được trạm trổ một hình rồng uốn lượn tinh xảo, mắt rồng vẫn sáng hoắc nhìn thẳng vào anh. Lạnh sóng lưng, anh quay ra. Bỗng, như có tiếng thì thầm - tiếng thì thầm nơi đáy sông sâu - vọng ra từ ngôi nhà; anh quay phắt lại, ngôi nhà không có một kẻ hở để nhìn vào; anh bước vội ra phía sau, cửa sau vẫn là kiểu và gỗ của cửa trước, nhưng hình trạm trổ là chim phụng, rất đẹp. Ngôi nhà tuy đã hoang tàn trong rêu phong, mà sao vẫn cho người ta một cảm giác về sự kiên cố; nhìn ngôi nhà, đủ biết chủ nhân của nó trước kia là bậc vương giả. Nhưng kìa, cửa sau đâu có ổ khóa, anh bước tới đưa tay vào hai thanh chắn kéo mạnh, tiếng kèn kẹt vang lên, tiếng gió rít, tiếng mưa quất vào mái ngói…trước mắt anh là một khoảng rộng nối liền giữa gian nhà bếp và nhà kho, một bàn ăn lớn với hơn chục ghế ngồi vẫn còn chễm chệ - lại là gỗ quý - anh hình dung một mâm đầy thịt cá với không khí tưng bừng, hạnh phúc của một đại gia đình đã xa, mà bỗng ngậm ngùi….ma quỷ lại đưa đường, chân anh lại cứ bước, anh đi thẳng vào gian nhà giữa, nơi ấy được chia thành nhiều phòng nhỏ, mỗi phòng có cửa gỗ hẳn hoi, gián nhện giăng đầy, chân anh nhám càu bụi bẩn dưới nền gạch tàu sậm màu lâu ngày không chùi rửa; thoáng qua đôi mắt anh một cánh cửa không đóng kín. Anh bước qua gian nhà lớn, thật là uy nghi một án thờ với bộ liễn được khắc chữ tàu, một bộ gõ rất lớn đặt sát vách trong, giữa nhà là một bộ salon được khắc trạm công phu…tất cả đều được làm từ gỗ - gỗ quý - tất cả đều phủ kín bụi và gián nhện, tất cả đều âm u và lạnh lẽo…anh bỗng giật thót người, quay lưng bước vội, như trốn chạy; không! Anh phải quay lại - có tiếng thì thầm vọng đến bên tai- em đang ở đây. Anh bước thẳng vào gian giữa, anh đi thẳng vào căn phòng có cánh cửa khép hờ, anh đứng sửng…nơi ấy, trên chiếc giường lớn, trên chiếc chiếu hoa đã rách sờn lỗ chỗ, một bộ xương đang há hốc chào anh.
Rồi người ta cũng xác định được đó là bộ hài cốt vị hôn thê của anh, rồi người ta cũng tìm ra nguyên nhân cái chết (không! Là hung thủ đã đầu thú sau bao ngày ác mộng), hắn- một thằng đàn ông si mê cô gái đẹp nhất vùng - hắn tha thiết, hắn khẩn cầu, và hắn điên tiết khi biết cô nhận lời làm vợ anh; hắn van xin một lần gặp cuối để từ biệt, cô đã xót thương nhận lời; và cô đã cắn lưỡi sau cơn thú tính cuồng say của hắn. Và hắn đã đưa cô vào đây- trên chiếc chiếu hoa - trong căn phòng đẹp, hắn không nghĩ sẽ có người dám bước vào khu vườn ma để đến ngôi nhà hoang luôn vang lên những tiếng hú rùng rợn. Hắn đã nhiều lần đến đó, ngồi khóc như một đứa trẻ nhỏ. Hắn bỗng hóa dại khờ sau khi đầu thú ( hay là sau khi cô gái chết) vì từ lâu, hắn luôn bên cạnh, cùng buồn vui với anh, cùng ngắm trăng, cùng uống rượu, và cùng khóc với anh.
Vẫn với sợi dây thừng gầy guộc, chiếc ghe nhỏ bồng bềnh theo con nước; vẫn ngôi nhà nhỏ, nhưng cửa đã khóa im lìm; vẫn bến nhỏ ngày xưa, nhưng người không còn nữa; anh đi đâu? Làm gì? Không ai biết. Chỉ biết, sau khi tìm được vị hôn thê, chôn cất và khóc tàn một cuộc rượu với “ thằng tri kỉ”, anh đã biến mất.
Sông lẳng lặng xuôi dòng, người người vẫn đi về trên bến sông ấy. Nhưng nếu ai đó đã từng một lần đến, và quay trở lại, sẽ thấy rằng sóng nước thét gào hơn, sông rộng ra có hơn chục mét, đất hai bên bờ lỡ, đổ…tràn ra mênh mông; lúc nước rút cạn, lồi ra hai bên bờ là những quan tài lâu ngày, nửa vùi trong đất nửa nhấp nhô ngoài khoảng không, như chực chờ rơi vào đáy nước….mọi thứ hình như chỉ mới hôm qua; ngồi trên thuyền, xuôi theo dòng nước, ngắm những đổ ngã và mọi đổi thay… mới thấm thía câu “ta là cát bụi”, và thèm khát sự bình yên biết bao.
Trăng đêm nay thật sáng, lồng lộng cả một vùng trời. Sông đêm nay thật lặng, nước nhẹ theo dòng trôi. Người đêm nay thật hiền, không ầm ĩ nơi quán rượu. Tất cả, như vừa sau cơn mê dài chưa kịp tỉnh trí. Tất cả, hiền hòa và dịu êm như dòng sông đêm nay, dòng sông không có sóng./.
Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất