Yêu nước chính là yêu quê hương, yêu bạn bè, gia đình, làng xóm, những tình yêu nhỏ đó phát triển thành một tình yêu vĩ đại hơn là tình yêu tổ quốc. Bởi vì tổ quốc bao gồm cả quê hương, bạn bè, người thân và xóm làng. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta cũng đã từng nghe và diễn đạt lại lập luận này rồi. Vậy nhân loại thì sao? Sao tình yêu đó không tiếp tục phát triển tới tầm nhân loại? Chẳng phải cả nhân loại cũng bao gồm luôn tổ quốc và quê hương, bạn bè, gia đình hay sao? Chúng ta thường cảm thấy mình thuộc về tổ quốc hơn là thuộc về nhân loại. Khi nói tới toàn thể nhân loại, phần lớn chúng ta sẽ thấy xa lạ, quá vĩ mô, quá rộng và không có cảm giác gắn bó. Còn nói về tổ quốc, ta thấy thân thương hơn, gần gũi hơn, tại sao? Tổ quốc cũng là hàng triệu con người xa lạ không quen biết nhau, nhân loại cũng vậy. Vậy lý do gì mà tình yêu cá nhân, gia đình bạn bè lại chỉ phát triển tới mức độ quốc gia rồi dừng lại mà không phát triển thêm tới mức toàn cầu?

Yêu nước là tình cảm tự nhiên?

Thực ra, tình cảm yêu nước hiện đại không phải là một cảm xúc “tự nhiên” như tình yêu gia đình hay bạn bè. Đúng là con người từ rất sớm đã có bản năng gắn bó với đất đai, cộng đồng và lãnh thổ - đó là một dạng “proto-patriotism” (tiền thân của lòng yêu nước) hình thành từ cơ chế tiến hoá như bảo vệ họ hàng và bộ lạc. Tuy nhiên, “lòng yêu nước” theo nghĩa hiện đại, gắn với quốc gia - một cộng đồng tưởng tượng hàng triệu người xa lạ - lại không thể chỉ dựa trên bản năng này. Các nghiên cứu về cộng đồng tưởng tượng (Anderson, 1983) hay chủ nghĩa dân tộc thường nhật (Billig, 1995) đều chỉ ra rằng để một tập thể hàng triệu người xa lạ cảm thấy gắn kết, cần có những thiết chế kiến tạo: giáo dục, truyền thông, báo chí, lễ kỷ niệm, biểu tượng quốc gia... Chính những “nghi thức” lặp đi lặp lại này tạo cho ta cảm giác gần gũi với một quốc gia mà thực chất hầu hết thành viên trong đó sẽ chẳng bao giờ gặp mặt. Nói cách khác, yêu nước là một tình cảm được xây dựng và duy trì bằng diễn ngôn và biểu tượng, chứ không phải tự thân bẩm sinh.,..vv.
Muốn mọi người yêu nước chúng ta phải có.....sự tuyên truyền. Tình cảm gần gũi giữa người thân gia đình, hoặc với bạn bè quen biết nhau là một thứ tình cảm tự nhiên. Sự tin tưởng nhau giữa những người quen biết là cảm xúc đã có sẵn từ thời nguyên thủy, nhờ đó con người có thể tập hợp thành các bộ lạc, làng xã - một cộng đồng nhỏ nơi mà ai cũng quen mặt nhau, có thể tin tưởng nhau. Tình cảm yêu thương giữa người thân máu mủ, sống chung, ở chung cũng là tình cảm tự nhiên, có thể tự có mà không cần sự tuyên truyền trên diện rộng. Còn tình cảm giữa hàng triệu người xa lạ với nhau, một tập thể lớn với hàng triệu người thì không thể tự nhiên mà có được, nó phải là một quá trình tuyên truyền bởi truyền thông báo chí, bởi giáo dục phổ quát. Người ta không thể hình dung về một đất nước đại đoàn kết với hàng triệu người xa lạ mà không cần tới các phương tiện truyền thông báo chí được. Một người ở trong đất liền không thể cảm thấy một hòn đảo xa xôi ngoài khơi lại gắn liền với mình như ruột thịt dù họ chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy hay đặt chân tới được. Phải có sự tuyên truyền, công tác tư tưởng để có được cảm giác đó. Báo chí liên tục nhấn mạnh vào cụm từ "của chúng ta". "lãnh đạo nước ta", "Việt Nam ta". Mọi vấn đề của bất kì nơi nào trên đất nước đều là vấn đề chung.
Trong cuốn Imagined Communities - Benedict Anderson đã gọi quốc gia là một “cộng đồng tưởng tượng” (imagined community). Tưởng tượng không có nghĩa là giả dối, mà đơn giản là: ngoài phạm vi gia đình, làng xóm, tất cả những cộng đồng lớn hơn đều là những cộng đồng tưởng tượng. Hàng triệu người trong một quốc gia sẽ không bao giờ gặp gỡ hay quen biết nhau, nhưng trong tâm trí họ vẫn hình dung ra một sự gắn kết, như thể họ cùng thuộc về một “chúng ta”.Anderson cho rằng dân tộc là “một cộng đồng tưởng tượng” (an imagined political community). Nó là “tưởng tượng” vì hầu hết thành viên của một dân tộc sẽ không bao giờ gặp mặt, biết tên hay giao tiếp với nhau, nhưng trong tâm trí họ vẫn tồn tại hình ảnh về một sự gắn kết và đồng nhất.
Một ví dụ quan trọng mà ông đưa ra là báo in (print capitalism): báo chí, tiểu thuyết, các văn bản chính thống được in ra và phổ biến rộng rãi đã khiến những con người xa lạ, ở nhiều vùng khác nhau, cùng chia sẻ một dòng chảy thông tin chung, từ đó hình thành ý thức rằng họ thuộc về “một cộng đồng”. Anderson viết:
“chính nhờ báo chí và ngôn ngữ in ấn, mỗi buổi sáng khi hàng triệu người cùng đọc một tờ báo, họ có cảm giác rằng mình đang chia sẻ một trải nghiệm chung với vô số người xa lạ khác. Đó là nhờ báo chí tạo ra cái cầu nối tưởng tượng, gắn kết một cộng đồng khổng lồ lại với nhau"
Hơn thế nữa, Anderson còn chỉ ra rằng chỉ trong khái niệm “quốc gia” mới xuất hiện một điều đặc biệt: con người sẵn sàng hy sinh mạng sống vì hàng triệu người xa lạ. Cái chết của một người lính nơi chiến trường được nhìn nhận như một cái chết có ý nghĩa, vì anh ta ngã xuống “cho Tổ quốc”, tức là cho một cộng đồng tưởng tượng rộng lớn mà anh ta chưa từng gặp mặt.
Điều này giúp lý giải vì sao tình cảm của chúng ta thường dừng lại ở mức quốc gia. Quốc gia có một biên giới, một lãnh thổ, một ngôn ngữ chung – những thứ cụ thể để ta bám vào khi hình dung về “chúng ta”. Còn “nhân loại” thì quá mênh mông, không có giới hạn rõ rệt, quá trừu tượng để tạo cảm giác gắn bó. Vì thế, tình yêu cá nhân – gia đình – làng xóm – tổ quốc là một tiến trình có thể tưởng tượng ra, nhưng mở rộng thêm tới “toàn nhân loại” thì lại trở nên quá xa vời.

Ngôn ngữ và văn hóa?

Nhiều người có thể lý giải tại sao chúng ta lại cảm thấy gần gũi với tổ quốc của mình hơn bằng cách giải thích bởi văn hóa và ngôn ngữ, đơn giản là vì chúng ta thấy gắn bó với những người có cùng bản sắc thôi.
Nếu ta nghĩ kĩ, “cùng văn hóa và ngôn ngữ” không tự nhiên mà có. Nó được kiến tạo bằng trường học, bằng báo chí, bằng lễ kỷ niệm, bằng những câu chuyện lịch sử được kể đi kể lại. Nhờ đó mà hàng triệu người xa lạ có thể hình dung ra mình đang chia sẻ một ký ức chung, một tiếng nói chung
Con người tiến hoá trong những nhóm nhỏ (gia đình, bộ lạc). Cơ chế như kin selection (ưu tiên người cùng huyết thống) và reciprocal altruism (hợp tác có đi có lại) khiến chúng ta thiên về chăm sóc người thân và những người quen. Não bộ có giới hạn trong việc duy trì mối quan hệ bền vững với khoảng vài trăm người (Dunbar ≈150 - cái này có thể dao động ở phạm vi lớn hơn và đang được nghiên cứu thêm). Những người vượt quá con số đó sẽ trở nên trừu tượng với chúng ta. Nói đúng hơn là một cộng đồng vượt quá số lượng trên sẽ khiến mọi thành viên không nhớ hết mặt nhau, mỗi quan hệ sẽ bị loãng, khó duy trì sự tin tưởng và đoàn kết. Để duy trì sự đoàn kết ở tập thế lớn như vậy, chúng ta cần có một câu chuyện chung để kể, một niềm tin chung (câu chuyện không nhất thiết phải là sự thật, nó phải là một câu chuyện hay, có ý nghĩa, có cảm xúc). Ở thời xưa, câu chuyện chung thường gắn với thần thánh, thiên tử, trật tự siêu nhiên: một vũ trụ quan, một niềm tin rằng tất cả đều do trời sắp đặt. Nhờ vậy, cộng đồng có thể quy tụ quanh vị vua hay giáo chủ như trung tâm của thế giới. Còn trong thời hiện đại, khi thần quyền suy yếu, câu chuyện chung được thay thế bằng câu chuyện dân tộc, câu chuyện Tổ quốc. Đó là lý do vì sao những biểu tượng như quốc kỳ, quốc ca, những bản anh hùng ca hay các ngày lễ lớn có sức mạnh to lớn: chúng không chỉ là sự kiện hay vật thể, mà là những “mảnh ghép” của câu chuyện chung, để hàng triệu người có thể tưởng tượng ra mình đang đồng hành cùng nhau. Về mặt tự nhiên thì chúng ta dễ đồng cảm với người “cụ thể” (một nạn nhân được mô tả, một câu chuyện cá nhân) hơn là với “một đám đông vô danh”. Khi quy mô tăng, cảm xúc bị loãng.

Rất dễ để chỉ trích toàn thể nhân loại.

Dễ thấy ở nhiều diễn đàn thảo luận khác nhau, người ta có thể dễ dàng comment bâng khuơ những câu nói kiểu như "nhân loại là loài độc ác nhất hành tinh", hay "chỉ có con người mới tàn ác hơn động vật",...vv. Việc chỉ trích bôi nhọ toàn thể loài người là một kiểu diễn ngôn có vẻ mang tính triết học, dễ được tấm tắc khen hay. Ai đọc mấy cái diễn ngôn kiểu này có lẽ cũng không cảm thấy triggered, vì có lẽ nói toàn thể nhân loại chung chung chắc gì đã nói tới mình. Vậy sao? Vậy cũng là nói chung chung, không nói tới cá nhân cụ thể, nhưng nói tới cộng đồng cụ thể thì sao? Ví dụ nói "Việt Nam toàn người độc ác"? hay "cộng đồng người x toàn người dở hơi",...vv thì sao? Chắc chắn diễn ngôn này không còn mang cái vẻ triết học cao siêu nữa, nó trở thành một diễn ngôn xúc phạm, vơ đũa cả nắm, gây bức xúc và đụng chạm tới nhiều người. Còn nếu nói chung chung cả nhân loại thì không sao hết, chẳng đụng chạm tới ai - ngược đời chưa? :D.
Nếu bạn đọc báo nhiều bạn cũng sẽ nhận ra rằng, báo chí viết về những vấn nạn xấu xa theo kiểu:
- “Loài người vẫn chưa học được cách chung sống với thiên nhiên: Rác thải nhựa tràn ngập đại dương.”
- "Bạo lực và lòng tham – căn bệnh muôn đời của nhân loại.”
Về cái đẹp thì ta lại có:
-“Tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam: Người dân cả nước chung tay cứu trợ miền Trung lũ lụt.”
- “Truyền thống lá lành đùm lá rách lại một lần nữa tỏa sáng.”.
Bất cứ tính chất xấu xa nào như tham lam, sân si, hoặc là hành vi xả rác bừa bãi đều quy kết cho "loài người". Không quy kết cho một cộng đồng, hay quốc gia cụ thể. Nhưng những hành động cao cả, đẹp đẽ, ví dụ cứ hộ cứu nạn, giúp đỡ nhau trong khó khăn lại khi lên báo chí thì lại được coi là đại diện tinh thần đoàn kết dân tộc :v, là bản chất văn hóa dân tộc chứ không phải là tinh thần bảo vệ nhau giữa đồng loại. Vậy ta lại có thêm nghịch lý nữa - khi xấu thì “lỗi của loài người”. khi đẹp thì là “vinh quang của dân tộc”. Như Van Dijk (1998) phân tích trong nghiên cứu về diễn ngôn và ý thức hệ, báo chí thường có xu hướng chuyển dịch blame và praise: cái tiêu cực thì quy cho phạm trù rộng và mơ hồ (nhân loại, thời thế, hoàn cảnh), còn cái tích cực thì gán cho cộng đồng cụ thể (dân tộc, quốc gia, nhóm mình). Cơ chế này cũng được Entman (1993) gọi là media framing - việc lựa chọn và nhấn mạnh khung diễn giải nhằm định hình cảm xúc công chúng. Bởi vậy, một hành động cứu giúp nhau đơn giản có thể được kể lại theo hai khung: “tình đồng loại của con người” hoặc “tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam”. Và như Billig (1995) chỉ ra trong Banal Nationalism, báo chí thường chọn khung thứ hai để củng cố niềm tự hào quốc gia, qua đó tái khẳng định một bản sắc chung.
Cái chung thì ôm lỗi, cái riêng thì ôm vinh quang. Đây là một cách lệch khung diễn ngôn nhưng rất phổ biến vì phục vụ tốt cho chính trị truyền thông. Cái xấu thì gán cho nhân loại để khỏi ai bị tổn thương; cái đẹp thì gán cho dân tộc để còn có cái mà tự hào. Thế là, loài người thành cái thùng rác, còn dân tộc thành bục vinh quang.

Chỉ cần kẻ thu chung - ta sẽ đoàn kết.

Con người luôn cần cảm giác thuộc về một cộng đồng nào đó, dù là cộng đồng trừu tượng. Nhưng một cộng đồng chỉ có thể tồn tại khi nó xác lập ranh giới: đâu là “chúng ta”, đâu là “người ngoài”. Cộng đồng có thể mở rộng theo thời gian, nhưng khó mà bao trùm toàn thể nhân loại, bởi trong tâm trí chúng ta luôn có nhu cầu phân biệt giữa “ta” và “họ”. Chính sự tồn tại của “kẻ khác” mới tạo ra điểm đối sánh, tạo ra động lực cạnh tranh và cũng là chất keo giữ cộng đồng bên trong gắn kết. Nếu toàn thể nhân loại trở thành một cộng đồng chung, không có kẻ thù bên ngoài, không có đối thủ để so sánh nữa thì
Nếu toàn thể nhân loại trở thành một cộng đồng chung, không còn kẻ thù bên ngoài, không còn đối thủ để so sánh nữa, thì câu hỏi đặt ra là: điều gì sẽ giữ chúng ta gắn kết? Trong lịch sử, hầu hết các cộng đồng đều củng cố bản sắc của mình thông qua sự đối lập với “kẻ khác”. Khi không còn “họ” để đối chiếu, “chúng ta” sẽ mất đi một phần chất keo gắn kết vốn có. Rất có thể, mâu thuẫn và sự phân chia sẽ lại nảy sinh ngay bên trong cộng đồng nhân loại, giữa những nhóm nhỏ hơn: tôn giáo, giai tầng, khu vực, hay thậm chí những hệ tư tưởng khác biệt. Vậy là ta lại chia ra thành nhiều cộng đồng nhỏ khác nhau, và không bao giờ cảm thấy thuộc về toàn nhân loại. Nói cách khác, nếu không có kẻ thù chung bên ngoài, nhân loại có nguy cơ tự tạo ra “kẻ thù bên trong” để tái lập ranh giới và duy trì cảm giác đoàn kết. Và đó cũng chính là bi kịch muôn thuở: chúng ta luôn cần một câu chuyện để đoàn kết, nhưng câu chuyện ấy thường được viết nên bằng sự hiện diện của một kẻ khác đối lập với mình. Một vòng lặp của nghịch lý.
Nếu trong tương lai xuất hiện người ngoài hành tinh lăm le xâm chiếm Trái Đất, lúc đấy khả năng khao là diễn ngôn tình yêu quê hương, gia đình người thân không chỉ mở rộng thành tình yêu nước, mà nó sẽ mở rông thành toàn thể "Trái Đất thân yêu" thật. Khi con người có kẻ thù chung, làn ranh sắc tộc, văn hóa, ngôn ngữ sẽ dần xóa nhòa, vì chúng ta có làn ranh mới - làn ranh giữa loài người với người ngoài hành tinh. Trong kịch bản đó có khi Trái Đất sẽ trở thành ngôi nhà thân yêu đúng nghĩa, hoặc các diễn ngôn kiểu "tự hào vì là người Trái Đất" sẽ gây được cảm xúc mãnh liệt không kém gì "tự hào vì là người Việt Nam" hiện nay. Tất nhiên trong bối cảnh viễn tưởng đó, người ta vẫn tự hào về quốc gia nơi họ xuất thân, nhưng có lẽ cũng tương đương với việc tự hào về tình thành, và bao trùm hơn vẫn là tổ quốc trong bối cảnh thực tại. Trong tâm trí loài người khi đó sẽ hình dung về một thế giới đại đồng đoàn kết, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa. Không còn là "tổ quốc là trên hết" mà sẽ là "mẹ Trái Đất là trên hết" chẳng hạn. Lúc đó ai mà comment "nhân loại là loài độc ác" có khi lại bị coi là "cái đồ phản động tự nhục", hay "xúc phạm văn hóa",..bla bla ấy chứ.
Tuy cái này chỉ là viễn tưởng thôi, vì quy mô toàn cầu là một quy mô phức tạp hơn nhiều, lợi ích phân chia khó hơn nhiều :v. Nhưng có lẽ lợi ích cho nhân loại sẽ được ưu tiên hơn lợi ích cho Alien nhỉ. Dù sao cũng chỉ là tưởng tượng của mình, vì ngoài điều kiện phải có đối thủ chung ra thì đúng là không còn cách nào khác để khiến toàn thể nhân loại tự cảm thấy mình là một cộng đồng lớn nữa cả.

Tóm lại:

Suy cho cùng, tình yêu nước hay tình yêu nhân loại cũng đều là những diễn ngôn được kiến tạo để con người có thể cảm thấy gắn bó với một cộng đồng vượt lên trên gia đình và bản thân. Nó cho ta ý nghĩa, cho ta cảm giác thuộc về. Nhưng chính vì được kiến tạo, nên phạm vi cộng đồng ấy luôn có ranh giới, luôn cần “người khác” để đối lập. Có lẽ, việc tưởng tượng về một nhân loại đoàn kết chỉ thực sự trở nên khả dĩ khi xuất hiện một “người khác” đủ lớn – như kịch bản alien kia. Còn trong thực tại, chúng ta vẫn sẽ mãi loay hoay trong những vòng tròn cộng đồng chồng lấn, thu hẹp, mở rộng, nhưng chưa bao giờ bao trọn cả nhân loại.
Biết đâu, “kẻ thù chung” không cần phải là người ngoài hành tinh. Có thể đó chính là biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, hay sự đe dọa của chính công nghệ do loài người tạo ra. Câu hỏi là: liệu chúng ta có đủ trí tưởng tượng, đủ niềm tin và sự dũng cảm để biến những thách thức ấy thành câu chuyện chung, thay vì chờ đợi một kẻ khác ngoài hành tinh gõ cửa Trái Đất?