Chủ nghĩa quốc gia - Chủ nghĩa dân tộc - Chủ nghĩa quốc dân? Mỗi cách hiểu sẽ lại đem đến những hệ quả khác nhau, thậm chí là trái khoáy với nhau. Mỗi một nhà chính trị - Tư tưởng sẽ đem ra những lý giải không hẳn là giống nhau về nation.
Nảy sinh ở Châu Âu vào khoảng thế kỷ XVIII, XIX mà Cách mạng tư sản Pháp là bệ đỡ, Chủ nghĩa dân tộc đã lan tràn ở quy mô toàn cầu. Sau khi mà nhiều nhà tư tưởng - Chính trị đưa ra các kiến giải về Dân tộc thì... Benedict Anderson lại cho rằng: Dân tộc chẳng qua chỉ là một cộng đồng tưởng tượng, dẫn lời của Tom Nairm ông cho rằng: "Chủ nghĩa dân tộc chỉ là thứ bệnh lý của lịch sử phát triển thời hiện đại".
Tại Á Đông, người Hán có khái niệm Dân (民) - 大學之道,在明明德,在親民,在止於至善 (Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện), có khái niệm Tộc (族) nhưng lại không dùng khái niệm dân tộc (民族) bù lại họ dùng một cách khá mơ hồ khái niệm Hán nhân (漢人): Chu Nguyên Chương khi Bắc phạt đã tuyên bố "khôi phục uy nghi cho quan lại người Hán". Họ sử dụng khá rõ ràng xác quyết khái niệm Hoa - Hồ; Hoa - Di, Trung Nguyên.
Các nước trong context Đông Bắc Á cũng không hề sử dụng khái niệm Dân tộc cho tới khi người Nhật đem ghép hai từ "Dân" và "Tộc" để chuyển hóa Nationa.
Context Đông Bắc Á sử dụng khái niệm Thiên Hạ (天下), Đại học, Kinh nhất chương nói "Tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ". Thiên Hạ là của chung hay của riêng tùy thuộc vào lý luận chính trị của các tệp quyền lực khác nhau. Ví dụ như Lã Thị Xuân Thu từng tuyên ngôn: Thiên Hạ là của chung nên mới có chuyện Hạ, Thương, Chu.
Dân thì có Lê dân - Bách tính (黎民百姓). Bách tính là trăm họ nhưng lại để chỉ những hào tộc, thân quý với Hoàng gia: "Bách tính, quân thần chi phụ tử huynh đệ" (百姓, 君臣之父子兄弟). Còn Lê dân chỉ là dành cho những người gần như đã mang thân phận Nô lệ.
Song hành với khái niệm Thiên Hạ thì có khái niệm Thiên Mệnh (天命) - nghĩa là mệnh trời. Khái niệm này hoàn toàn có thể ứng dụng cho việc luân chuyển giữa các triều đại, khi Mệnh Trời đã bỏ thì quốc gia sẽ chịu nhiều tai ương - Ví dụ như "biến động thời tiết" làm cho lũ lụt, hạn hán, nạn châu chấu, bệnh dịch... Và khi đó thì Trời sẽ ban Thiên Mệnh cho một tộc họ khác, Thiên Hạ sẽ đổi chủ.
Người có Thiên Mệnh ấy là Thiên Tử (天子 tức là con trời). Mất Thiên Mệnh nghĩa là Trời đã bỏ.
Các khái niệm Thiên Hạ, Thiên Mệnh, sẽ hỗ trợ người được gọi là Thiên Tử cai quản cùng một lúc nhiều sắc tộc (ethnicity) khác nhau. Với trường hợp Đại Việt thời Lý - Trần, Thiên tử cai quản cả người Đại La (Đường nhân), xứ Đông (Tống nhân), Trường Châu (Liêu Di), Phong Châu (đất của Lạc dân) và cả đất Trại (sau này tự xưng là Hán nhân).
Sau này chúng ta bắt đầu có một ảo tưởng mộng mơ rằng đấy từ 4 ngàn năm trước có một dân tộc (tức là dân tộc ta) đã sống ở trên đất này. Hay là chúng ta có một ảo tưởng lãng mạn nữa là ... Ta là Bách Việt (mặc dù chính ta còn chả hiểu cái Bách Việt là thế nào) đã dày công chống Hán hóa và đã chống thành công.
Ấy là bởi ta đã nhiễm cái Nationalism thành định kiến mất rồi! Và cố gắng chứng minh rằng đó là chân lý. Thực tế cuộc sống, thực tế lịch sử rộng mở và đa dạng hơn là cái đầu đơn tuyến của ta suy tưởng và bắt tổ tiên phải đơn nhất.
Lại nói về CNDT và cộng đồng tưởng tượng
Như đã nói, Việt Nam khi bước vào Thiên niên thứ 2 thì hoàn toàn không có cái gì gọi là CNDT cả. Và do vậy không hề có cái gọi là Khát vọng, hoài bão giải phóng dân tộc, tất nhiên sẽ không có chiến tranh giải phóng dân tộc.
Chủ nghĩa dân tộc (Nationalism) có lẽ được truyền vào Việt Nam qua những cuốn Tân thư (Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi) qua sự tiếp biến, giao thoa văn hóa Đông - Tây. Chỉ đến thời của Phan Bội Châu thì các cụ mới ngỡ ngàng nhận ra có một thứ được gọi là dân tộc. Ông Hồ Chí Minh là một trong những lớp học trò đầu tiên của Chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, cho nên căn cốt của ông ấy là Dân tộc chứ không phải là Chủ nghĩa Cộng Sản. Và điều này cũng từng khiến ông thiếu đi sự nhiệt thành ủng hộ từ Quốc tế cộng sản.
Nói cách khác, trong một chừng mực nào đó, CNCS và Chủ nghĩa Dân tộc vừa hỗ trợ lẫn nhau, vừa xung khắc nhau. Một anh chú trọng bản địa một anh toàn cầu hóa Vô sản.
Nationalism và Thiên Mệnh
Ở Việt Nam thì chúng ta làm ra cuộc "Cách mạng giải phóng dân tộc" sau đó chúng ta đã mix Marxist với Nationalism. Và Khoa học Lịch sử đã bị soi rọi bởi hai thứ chủ nghĩa này. Các dữ kiện lịch sử đều bị nhìn dưới lăng kính Nationalism, và việc phê phán lịch sử lại dựa vào Marxist.
Sẽ thật bất ngờ với khá nhiều người khi các cụ Ngô, Đinh gì đó không hề có khái niệm chiến tranh giải phóng dân tộc. Các cụ Lý, Trần coi Hán - Đường - Tống là tiền nhân thậm chí Tổ tông của mình, coi thiên hạ là của giòng tộc nhà mình (Thiên hạ là của họ nhà ta) – anh em cùng nhau chung hưởng.
Đã có người hỏi "thứ gì gắn kết mọi người trở thành quốc gia từ Đại Việt là gì? Lực lượng nào là lõi quốc gia?". Thực tế là tìm cái gắn kết mọi người để thành quốc gia đã là một thứ ảo mộng của thời Hiện đại. Ví dụ như triều đình Lý Thái Tông đã phải thừa nhận "các chư hầu khác họ trong nước" sự ràng buộc giữa Thiên tử và các chư hầu khác họ phụ thuộc rất lớn vào quyền lực quân sự, kinh tế của người được trao Thiên Mệnh. Lý Thái Tổ đã gắn cho cuộc thoạt đoạt của mình danh nghĩa Thiên Mệnh. Là một Đường nhân chính tông, thống lĩnh tệp Đường ở Đại La - Thăng Long ông đã sử dụng và hợp lý hóa khái niệm Thiên Mệnh cho sự cai trị của dòng họ mình. Cái quốc gia của ông ấy, cái Việt bang của ông là hợp với Thiên Mệnh.
Thiên đô chiếu đưa lên cặp khái niệm là Thiên Mệnh và Dân Nguyện (上謹天命。下因民志) (1). Bậc Thiên tử phải đứng giữa kết nối cả Thiên Mệnh lẫn Dân Nguyện. Khi chối Thiên Mệnh (忽天命) hậu quả “thế đại phất trường, toán số đoản xúc …” (世代弗長,算數短促…) xảy ra ngay tắp lự với Đinh Lê nhị thị (2).
Khi "người miền dưới" vào Thăng Long Trần Thủ Độ cũng đã chuyển hóa Mệnh Trời thành công từ tay họ Lý vào tay họ Trần. Ta cũng không ngạc nhiên khi trong Dụ Chư Tỳ Tướng Hịch Văn ((諭諸裨將檄文), Hưng Đạo Vương đã đánh bóng đến vằng vặc tấm gương Hán, Đường, Tống, Nguyên để ông soi vào, để tỳ tướng của ông nhìn vào tự cảnh tỉnh bản thân, tu dưỡng và làm tròn bổn sự của mình. Nào đâu thấy anh hùng nước Nam?
Trong cái bản Bình Ngô Đại Cáo (平吳大誥), một tác phẩm có thể coi là proto Nationalism tại Việt Nam thì cũng chỉ có Triệu Đà là “quốc tổ”: “Từ Triệu, Đinh Lê, Lý, Trần gây dựng nước ta” (自 趙 丁 李 陳 之 肇 造 我 國 – Tự Triệu, Đinh, Lý, Trân chi triệu tạo ngã quốc) chứ làm gì có Văn Lang? Có Hùng Vương? Có Kinh Dương Vương với Lạc Long Quân?
Rồi đó chúng ta mắc cái sai lầm chết người là đem một thứ “bệnh lý của lịch sử phát triển thời hiện đại” (3) ấy là Nationalism (Dân tộc chủ nghĩa) để phán định lịch sử. Đáng nhẽ ra ta phải soi vào tấm gương lịch sử để đối diện với chính mình, thì ta lại bắt Lịch sử soi gương Nationalism để mà tự kiểm, tự thanh lọc. Sau khi tự kiểm trước Nationalism, Lịch sử lại phải lếch thếch đến trước Marxist để thanh lọc bản thân và cúi đầu công nhận rằng mình thuộc giai cấp bóc lột và rồi "Những ngày ta sống đây là những ngày đẹp nhất" (4).
Thật là trớ trêu làm sao khi Khoa học Lịch sử và Lịch sử hiển nhiên như nó phải thế phải cúi đầu nhận sai trước sự phán xét nghiêm khắc của người đương đại, trước tòa Dị Giáo. Chỉ còn thiếu nước ta tuyên bố treo cổ, hay tống tù Lịch sử nữa mà thôi.
Việt tâm luận – Đúng hơn là Kinh tâm luận
Đường nhân kiến tạo Đại La thành thì đã làm sao? Tống nhân với tập Ngô Việt kiến tạo xứ Đông, tiến lên thượng Châu thổ vào thành Thăng Long làm ra hào khí Đông A thì đã sao? Chả nhẽ lại là xấu hổ vì nỗi các vị ấy toàn là Tầu dạt sao?
Cái hệ quả của Nationalism đó là đi thẳng một mạch tới hội chứng Việt tâm luận. Tức là coi người Kinh Việt là chủ thể, là trung tâm của mọi hoạt động nghiên cứu, mọi thành quả của lịch sử diễn ra suốt hàng ngàn năm tại Việt Nam. Chúng ta nghiễm nhiên coi rằng người Việt là chủ nhân của đất này suốt từ 4000 năm qua mà không hề để ý sự di dạt va đập văn hóa văn minh, cũng không hề để tâm tới sự đa lõi – đa trung tâm của văn minh Việt Nam.
Chúng ta đã chính thức ngoại biên hóa, đẩy những cộng đồng Việt thật sự ra khỏi dọc dài cao sâu của tiến trình Lịch sử Việt Nam. À đấy cái Trống Đồng văn minh Đông Sơn ấy của ông Kinh nhà ta đâu? Tày Thái ấy họ kế thừa tốt như thế sao biến họ thành ngoại vi cho được? Li – Lão tổ tông của người ngữ hệ Tai – Kadai đã bị xóa trắng trong dòng sử Việt bởi lối cắt xén khá là tệ hại.
Hãy xem Hậu Hán thư viết: Đến năm (Kiến Vũ) thứ mười sáu (năm 40), người con gái quận Giao Chỉ là Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị làm phản, đánh quận thành. Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh, gả làm vợ của người huyện Chu Diên là Thi Sách, là người rất hùng dũng. Giao Chỉ thái thú là Tô Định dùng hình pháp ràng buộc, Trắc giận bèn làm phản. Do đó người Man Lí của các quận Cửu Chân - Nhật Nam - Hợp Phố đều hưởng ứng, cả thảy đánh cướp sáu mươi lăm thành, tự lập làm vương.
(至十六年,交阯女子徵側及其妹徵貳反,攻郡。徵側者,麊泠縣雒將之女也。麊音莫支反。泠音零。嫁為朱䳒人詩索妻,甚雄勇。交阯太守蘇定以法繩之,側忿,故反。於是九真、日南、合浦蠻里皆應之,凡略六十五城,自立為王。)
Chà sang tới Việt Nam chúng ta đã cắt 2 chữ thôi “Man Lí” (蠻里), bản chất cuộc khởi nghĩa của Nhị Trưng thay đổi hoàn toàn! Làm thế nào chúng ta lại có được cái thứ Sử như vậy được cơ chứ?
Rồi đó, tuyệt thật sự luôn! Tùy Thư – Lưu Phương liệt truyện chép thế này: “Nhân Thọ trung, hội Giao châu, Lí nhân Lý Phật Tử tác loạn (仁壽中,會交州俚人李佛子作亂) nhưng trong dòng sử về nhà nước Vạn Xuân đâu còn bóng dáng “Lí nhân” tổ tiên người Tai?
Oái oăm thay đến cả vấn đề Động Khuất Lão mà Lý Nam Đế (Lý Bí) chạy vào mộ quân chống tướng Lương (Khi đó là Trần Bá Tiên) mà nhà nghiên cứu cũng chỉ dám nói là đồng bào thiểu số. Sao không nói thẳng ra luôn đất ấy là đất của Lão (tức là Tai – Kadai?) (5).
Chưa kể bản dịch như Dư Địa Chí (Nguyễn Trãi) (6) cũng rất là chênh vênh cháo váo, ngông nghênh vô lối khi đi giữa đúng và sai khi đã chuyển hóa Ngô ngữ, Lạo ngữ thành... tiếng nói người nước Ngô, tiếng Ai Lao (Lào). Nói như vật lý lượng tử thì các học giả đi trước ta nhiều người đã lâm trạng thái “chất chồng đúng sai” xong rồi để nó ung thư di căn sang cho người đi sau.
Việt Tâm Luận – thậm chí là khát khao thoát Hán còn dở ở một điểm ấy là ta nhận ta là Bách Việt mà không cần quan tâm tới cái anh Bách Việt ấy là ai? Nói ngôn ngữ gì? Văn hóa ra sao? Về mặt sinh học Hán Hoa Nam mang nguồn gen 70% là Tai, nhưng con người văn hóa ấy lại là Tầu. Phương ngữ Ngô Việt là một phương ngữ của tiếng Hán chứ không phải là ngôn ngữ Bách Việt. Tất cả di dạt sang đất Việt Nam ngày nay mà làm nên nào Thăng Long, nào xứ Đông, nào người Kinh Lộ. Thế mà cứ ép cho họ thành Bách Việt được thì… thật chịu người Kinh!
Đến cái anh Vietic thì người Kinh hối hả trốn một mạch. Lẽ đâu ta đồng hạng với người đốt nương làm rẫy, ở trong hang? Lẽ đâu khi Á Đông bước vào đồ sắt ta vẫn loay hoay với đầu mũi tên làm bằng xương thú? Phải nhờ người Hán giáo hóa mới ra được các vóc dáng con người có văn hiến?
Cái Việt tâm luận nó không nguy hiểm ở chỗ nhận xằng tất cả các giá trị văn hóa văn minh của Á Đông là do người Việt tạo tác, nó nguy hiểm ở chỗ giả khoa học, nhân danh khoa học để chứng tỏ Mệnh Trời – Sứ mệnh lịch sử đã trao vào tay người Kinh? Ta còn phải tưởng tượng ra bao nhiêu thứ nữa để hợp lý hóa các sai quấy của mình?
Thiết nghĩ thịnh vượng quốc gia, đấy là hạ kế sách vậy! Không hay ho gì cả.
Chú thích
1, 2. Trong trí nhớ của tôi thì bản Thiên Đô chiếu được viết là "Thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân nguyện" chứ không phải là "... hạ nhân dân chí"; "Đinh Lê nhị thị" chứ không phải là "Đinh, Lê nhị gia".
3. Benedict Anderson: Cộng đồng tưởng tượng
4. Thơ Chế Lan Viên - Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
5. Hà Mạnh Khoa: Động Khuất Lão trong lịch sử Việt Nam.
6. Ức Trai Di Tập - Dư Địa Chí: Phan Huy Tiếp dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính, NXB Văn học Sử học, Hà Nội - 1960.
img_0