Chủ nghĩa đa nguyên trong tôn giáo
Các tôn giáo có niềm tin mâu thuẫn với nhau, cách để né tránh xung đột đó là ngưng tranh luận thần học với nhau, hay quay qua công kích người vô thần.
Trong thế giới niềm tin tôn giáo - tâm linh, ta dễ thấy có sự không nhất quán giữa niềm tin của nhiều văn hoá và tôn giáo khác nhau. Chẳng hạn các tôn giáo độc thần như Kito giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo thì cho rằng chỉ tồn tại duy nhất một vị thượng đế, họ tin vào thiên đường vĩnh cửu, nơi người tốt sẽ trở về bên Thiên Chúa sống đời đời hạnh phúc. Hindu giáo - Phật giáo thì tin vào luân hồi, đầu thai chuyển kiếp. Mà ngay trong chính cùng một hệ thống niềm tin, người ta lại tiếp tục chia ra nhiều tông phái khác nhau diễn giải lại niềm tin theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn cùng là các tôn giáo độc thần khởi nguồn từ Abraham, Hồi giáo thì cho rằng nhân vật Giê Su chỉ là một nhà tiên tri, và bị người Kito hiểu nhầm là Chúa. Người Kito thì lại tin rằng Giê Su đích thực là ngôi con của Thiên Chúa 3 ngôi. Người Do Thái thì bác bỏ tính chính danh của nhân vật Giê Su. Hoặc cùng là Kito hữu, người Công giáo Roma thì tin rằng phải cầu nguyện cùng đức mẹ Maria, các vị thánh và phải tuân theo hệ thống cấp bậc nhà thờ với trung tâm là Vatican, còn người Tin Lành thì tự xác lập mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa mà không cần phải thông qua bất kì ai khác.
Cùng là Phật giáo, nhưng Bắc Tông thì vẫn tin vào 10 phương chư Phật, Quan Âm Bồ Tát, còn Theravada thì phủ nhận những yếu tố huyền thoại trên và chỉ tin vào sự giác ngộ của nhân vật Thích Ca Mâu Ni. Và cùng một trường phái Theravada, có người thì tin vào sự màu nhiệm không thể giải thích của các chi tiết liên quan đến cuộc đời Đức Phật, nhưng cũng có người thì coi đó chỉ là yếu tố thần thoại mang tính biểu tượng, không nên hiểu theo nghĩa đen.
Khi đứng trước cùng một hiện tượng lạ chưa ai giải thích được, phản ứng của các tôn giáo cũng sẽ khác nhau, lời giải thích đưa ra cũng sẽ khác nhau. Cùng thấy một đám mây hình người trên trời, người thì sẽ cho rằng đó là Thiên Chúa hiện hình, người thì cho rằng đó là Phật Pháp hiện linh, người thì bảo đó là người ngoài hành tinh.
Cùng hiện tượng chết lâm sàng, người thì tin đó là sự màu nhiệm của Thiên Chúa ban cho cơ hội sống lần thứ 2, người thì bảo đó là do nghiệp lực chưa hết, phải tiếp tục trả nghiệp, người thì bảo đó là quỷ nhập tràng.
Cứ cho rằng thế giới tâm linh là có thật, vậy ta phải đối mặt với vấn đề rằng, lời giải thích tâm linh của chúng ta rất thiếu nhất quát, ai thích tin kiểu gì thì tuỳ. Không phải người duy vật hay vô thần bác bỏ sự tồn tại của tâm linh, mà chính những người tin vào tâm linh - thần thánh tự bác bỏ lẫn nhau mà không nhận ra. Bởi vì người theo một hệ niềm tin tất yếu phủ nhận các hệ khác, vì chấp nhận cái này đồng nghĩa bác bỏ cái kia.Để đối diện với thực tế rằng trên thế giới tồn tại hàng trăm tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau, các triết gia tôn giáo (như John Hick) đã đề xuất thuyết đa nguyên tôn giáo (religious pluralism).
Theo đó thì không một tôn giáo nào có thể độc quyền chân lý tuyệt đối. Mỗi tôn giáo chỉ là một con đường văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ để nhân loại tiếp cận cùng một “thực tại tối hậu” (có thể gọi là Thượng đế, Đạo, Chân như, Brahman…). Do đó, khi người Công giáo nói về phép lạ, Phật tử nói về nghiệp lực, hay dân gian nói về hồn vía, thực ra họ chỉ đang diễn đạt cùng một điều huyền nhiệm theo lối riêng.
Quan điểm đa nguyên giúp giảm căng thẳng tôn giáo, khuyến khích sự bao dung, đối thoại và chung sống hoà bình trong xã hội đa tôn giáo. Tuy nghe hợp lý và nhân văn, đa nguyên lại vấp phải một nghịch lý lớn, dễ thấy nhất thì trước tiên là nó mâu thuẫn với các tôn giáo độc thần: Các tôn giáo độc thần (Kitô giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo) khẳng định chỉ có một Thượng đế duy nhất và một chân lý tuyệt đối. Nếu nói rằng “tôn giáo nào cũng đúng một phần”, thì lập tức phủ nhận tính tuyệt đối ấy.Với tín đồ độc thần, đa nguyên chẳng khác gì một hình thức “dị giáo” (heresy).
Nếu nói các tôn giáo độc thần là độc tôn niềm tin, thì thực chất đa nguyên cũng là một kiểu “độc tôn trá hình”. Nghe qua quan điểm của người theo đa nguyên thì tưởng như đang “dung hoà tất cả”, nhưng thực chất họ đang đứng ở một vị trí “cao hơn” để phán xét rằng: “Tất cả các bạn chỉ có một phần sự thật mà thôi”. Điều này vô tình biến đa nguyên thành một dạng độc tôn của chính nó - độc tôn của “chủ nghĩa đa nguyên”. Đa nguyên cũng vô tình bác bỏ luôn những niềm tin cơ bản mà các tôn giáo mặc định coi là chân lý.
Nếu tất cả chỉ là cách diễn giải khác nhau, thì đâu là nền tảng để phân biệt đúng-sai, thật-giả?
Ví dụ: nếu một giáo phái cực đoan chủ trương bạo lực và nhân danh Thượng đế để giết chóc, thì liệu cũng có thể được xem là “một phần của chân lý”? Đa nguyên vì thế dễ rơi vào tình trạng tương đối hóa quá mức.

Tuy nhiên đa nguyên không phải là vô dụng. Trong xã hội hiện đại, nơi nhiều cộng đồng tôn giáo cùng tồn tại, đa nguyên đóng vai trò như nguyên tắc sống chung. Nó không bắt buộc tín đồ phải thật sự tin “ai cũng đúng”, nhưng khuyến khích họ hành xử như thể niềm tin khác cũng có giá trị, nhằm duy trì hoà bình, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh tôn giáo. Con người thực sự có thể đấm nhau chỉ vì ông thì nói chết xong đi đầu thai, ông thì bảo chết xong thì về với Chúa. Cách tránh đấm nhau đó là ngưng tranh luận, không đào sâu vào thần học nữa - à, cách tốt nhất là quay qua chỉ trích mấy thằng vô thần với chủ nghĩa duy vật - tụi nó không đoàn kết với nhau cho lắm, và không hình thành nên cộng đồng tôn giáo, cho nên dễ bắt nạt. :))
Đa nguyên chỉ bất lực trong phạm vi thần học nội bộ, đa nguyên khó thuyết phục những tôn giáo khẳng định tính độc quyền của mình. Với họ, chấp nhận đa nguyên chẳng khác nào phản bội đức tin. Nhưng ở cấp độ vi mô, với từng cá nhân dân chúng, họ không cần quan tâm tới vấn đề này, họ thường không đào sâu vào tranh luận thần học, logic thần học, không quan tâm niềm tin đúng sai và logic thế nào. Họ thường chỉ cần một đấng siêu nhiên nào đó để thờ lạy, cầu xin, cứu rỗi là đủ rồi. Đấng đó là đấng nào cũng được, chỉ cần là một ghi lễ quen thuộc có tính truyền thống, để tìm an ủi (thắp nhang, đi chùa, làm dấu Thánh giá…).Dân cần cảm giác “có ai đó/điều gì đó” lắng nghe mình trong lúc bất lực.Chính vì vậy mà ta thấy một người Việt Nam có thể đi chùa đầu năm, cúng ông Công ông Táo, nhưng vẫn đến nhà thờ dịp Noel cho vui. Một người Công giáo bình dân ở nông thôn có thể vừa cầu nguyện với Đức Mẹ, vừa lén đi xem thầy cúng. Thậm chí có người chẳng quan tâm gọi “Phật” hay “Chúa”, miễn có ai đó để mình gửi gắm niềm tin. Ở gốc rễ, con người tìm đến tôn giáo không phải vì họ muốn một luận thuyết siêu hình logic, mà vì nỗi sợ hãi trước cái chết và bất định, nhu cầu cộng đồng - sinh hoạt tôn giáo giúp gắn kết, Nhu cầu tâm lý cảm giác có sự che chở, hy vọng.Nói cách khác: “Tin cái gì” không quan trọng bằng “Có cái gì để tin”.Tín ngưỡng hỗn dung:Tín ngưỡng hỗn dung (syncretism) là hiện tượng nhiều hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục khác nhau trộn lẫn vào nhau trong đời sống thực hành. Người ta không phân biệt rạch ròi đâu là Phật, đâu là Đạo, đâu là tín ngưỡng dân gian – tất cả đều hòa chung trong một nếp sống tâm linh.Việt Nam là một đất nước có lịch sử giao thoa văn hóa rất mạnh. Tín ngưỡng bản địa: thờ cúng tổ tiên, thờ thần linh tự nhiên (thần sông, thần núi, thành hoàng…). Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo du nhập từ Trung Hoa, dần pha trộn vào tín ngưỡng bản địa. Công giáo, Tin Lành đến từ phương Tây, ban đầu bị xem như đối lập, nhưng về sau cũng ít nhiều bị ảnh hưởng văn hóa dân gian.Kết quả là đa số người Việt không theo một tôn giáo duy nhất theo đúng chuẩn giáo lý, mà thực hành pha trộn nhiều yếu tố.Ở Việt Nam, tính hỗn dung biểu hiện cụ thể như việc người dân coi việc thờ cúng ông bà là bổn phận căn bản. Nhưng cùng lúc, họ đi chùa cầu bình an, cầu duyên, cầu tài. Với họ, chẳng có mâu thuẫn gì, tổ tiên và Phật cùng bảo hộ cho gia đình.Một ngôi chùa có khi thờ Phật, Quan Âm, Thánh, thậm chí cả thần Thành Hoàng. Người dân thắp hương không phân biệt: miễn là có “linh”.Thậm chí nhiều nơi người Công giáo vẫn giữ phong tục dân gian. Dù Công giáo theo nguyên tắc chỉ thờ Thiên Chúa, nhiều giáo dân Việt vẫn duy trì tục cúng giỗ, dựng bàn thờ tổ tiên, thắp nhang. Bởi vì giáo hội đôi khi phải “thích ứng” để hòa nhập với văn hóa bản địa.Khi ốm đau họ đi bệnh viện, rồi mời thầy cúng, đi xem bói, lên chùa cầu Phật, đôi khi vẫn nhờ cha xứ cầu nguyện. Người dân không thấy mâu thuẫn, vì càng nhiều chỗ bấu víu, càng yên tâm. Mình gọi đây là “niềm tin đa kênh”Ý nghĩa của hỗn dung:Người dân cần một giải pháp an ủi, không cần lý luận nhất quán, đây là một kiểu “thực dụng tâm linh”. Theo phong tục là “hợp tình hợp lý”, dù bản thân có tin hay không, vì nó một phần giúp duy trì tính cộng đồng cho người dân.Hỗn dung giúp tôn giáo bản địa tồn tại song song với tôn giáo ngoại lai mà không xung đột dữ dội, nó là sự linh hoạt của tôn giáo.Tín ngưỡng hỗn dung ở Việt Nam cho thấy một điều quan trọng, rằng: Con người bình dân ít quan tâm đến logic thần học chết đi đầu thai hay về với Chúa ko quan trọng. Điều họ quan tâm là có một sức mạnh siêu nhiên nào đó để dựa vào trong những lúc bất an.Vì vậy, “Phật - Thánh - Chúa - Tổ tiên” có thể cùng hiện diện trên bàn thờ, và chẳng ai thấy mâu thuẫn cả.Nói cách khác thì ở bình diện dân gian, tôn giáo không phải là hệ tư tưởng, mà là “kỹ thuật sống” để tìm an ủi và gắn kết cộng đồng.


Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
