Chiến tranh IRAN-IRAQ: Từ cách mạng Hồi giáo đến cơn ác mộng vùng Vịnh
Phân tích toàn diện cuộc chiến Iran–Iraq kéo dài gần 8 năm: nguyên nhân, diễn biến, hậu quả và những bài học lịch sử bằng máu
Saddam Hussein: Từ ngai vàng đến khói lửa chiến tranh

Người đàn ông này chắc không còn xa lạ với những người đã tìm hiểu hoặc ít nhất là nghe về cuộc chiến tranh Iraq (2003) (hay còn gọi là chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2) - cuộc xung đột mà Lực lượng Đa quốc gia do Hoa Kỳ dẫn đầu đã lật đổ chính quyền Saddam Hussein chỉ sau vài tuần. Thế nhưng, ít người biết rằng hơn hai thập niên trước, chính ông đã khơi mào một cuộc chiến khác, ít được nhắc đến hơn nhưng mức độ khốc liệt và tàn phá mà nó đem lại là không thể đong đếm: Chiến tranh Iran-Iraq (1980).
Nhưng trước hết ta sẽ đi sơ qua về bối cảnh lên nắm quyền và cách vươn lên đỉnh cao quyền lực của Saddam cùng những toan tính chính trị mạo hiểm đã đẩy ông vào cuộc xung đột đẫm máu kéo dài suốt tám năm. Saddam Hussein vốn là nhân vật quyền lực số 2 chỉ sau người đứng đầu là Ahmed Hassan al-Bakr trong đảng Ba’ath Iraq. Ahmed Hassan al-Bakr là Tổng thống Iraq kiêm Thủ tướng và Tổng Tư lệnh Quân đội (1968-1979) nhưng vì vấn đề sức khỏe mà ông đã tuyên bố rời khỏi mọi chức vụ vào 16/7/1979 (trên thực tế mà hầu hết các nhà sử học đều nhận định là al-Bakr bị Saddam buộc phải từ chức dưới áp lực của bộ máy an ninh và tình báo mà Saddam kiểm soát với tư cách Phó Tổng thống). Saddam Hussein nhờ thế mà chính thức trở thành tổng thống của Iraq.
Để dập tắt mọi mối đe dọa chính trị và củng cố quyền lực thì Saddam đã chỉ đạo 1 chiến dịch thanh trừng khổng lồ diễn ra sau đó, những người bị hành quyết bao gồm một phần ba số thành viên của Hội đồng Chỉ huy Cách mạng (RCC), các bộ trưởng, thành viên ban lãnh đạo khu vực của Baath, các lãnh đạo công đoàn và những người được cựu tổng thống đề cử. Cuộc thanh trừng này không chỉ củng cố địa vị tuyệt đối của Saddam, mà còn phát đi thông điệp rằng Iraq giờ đây là vương quốc quyền lực của một vị vua duy nhất
Tuy nhiên, khi Saddam Hussein vừa củng cố quyền lực chưa được bao lâu thì một ngọn lửa tôn giáo đã bùng lên dữ dội ở phía đông: Cách mạng Hồi giáo Iran. Chỉ trong hơn một năm, từ 1978–1979, những làn sóng biểu tình, đình công đã làm rung chuyển Iran, chấm dứt vương triều Pahlavi — đồng minh thế tục và thân Mỹ bậc nhất Trung Đông khi ấy. Shah Mohammad Reza Pahlavi buộc phải lưu vong, nhường chỗ cho Ayatollah Ruhollah Khomeini, người trở về từ Pháp để thiết lập một nhà nước thần quyền Shia lần đầu tiên trong lịch sử khu vực.
Sự kiện này khiến bản thân Saddam Hussein lo ngại hơn bao giờ hết. Dù Iraq được điều hành bởi chính quyền Ba’ath thuộc dòng Sunni, nhưng phần lớn dân số nước này lại theo Shia, tập trung ở miền Nam giáp Iran. Saddam hiểu rằng một với một Iran như tình hình hiện tại thì cách mạng sẽ không dừng lại bên kia biên giới bởi lẽ ông cho rằng học thuyết “xuất khẩu cách mạng” của Khomeini có thể kích động cộng đồng Shia Iraq nổi dậy lật đổ chính quyền Baghdad.
Mối lo sợ sự lan rộng của Cách mạng Hồi giáo Iran không chỉ ám ảnh riêng Baghdad. Các quốc gia Ả Rập láng giềng, đặc biệt là Ả Rập Xê Út, Kuwait và các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), đều nhìn thấy hiểm hoạ từ một Iran có tham vọng xuất khẩu tư tưởng cách mạng đe dọa trực tiếp nền quân chủ đang ngồi trên mỏ dầu khổng lồ của vùng Vịnh. Vì thế mà từ rất sớm, Ả Rập Xê Út và Kuwait đã bật đèn xanh cho Baghdad với những cam kết viện trợ tài chính khổng lồ nếu Saddam tiến hành tấn công Iran.
Không chỉ có vậy, với Mỹ và phương Tây, mất Iran đồng nghĩa mất một đồng minh then chốt trong khu vực, và còn đối mặt một thế lực mới chống Mỹ, chống phương Tây kịch liệt hơn cả phong trào dân tộc thế kỷ trước. Họ không thể làm ngơ trước ảnh hưởng tư tưởng lan rộng của Iran nên cũng ngầm chuyển giao vũ khí, thông tin tình báo, bảo đảm Iraq không bị quốc tế cô lập, dù vẫn giữ vai trò “trung lập công khai”.
Có hậu thuẫn tài chính, nguồn cung vũ khí và hứa hẹn hỗ trợ ngoại giao, Saddam Hussein tin rằng ông đang nắm trong tay “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”. Trong mắt giới tướng lĩnh Iraq, Iran sau Cách mạng Hồi giáo vẫn còn hỗn loạn khi quân đội vừa bị thanh lọc, tướng lĩnh trung thành với Shah bị hành quyết, bộ máy chính quyền mới thì chưa kịp tái thiết. Saddam tin rằng chỉ cần một chiến dịch chớp nhoáng hủy diệt chính quyền Iran thì ông sẽ không chỉ loại bỏ mối nguy xuất khẩu tư tưởng cách mạng mà còn hưởng được vinh quang như một người anh hùng của thế giới Ả Rập. Thế nhưng, cuộc tấn công Iran đã không diễn ra như tính toán. Chỉ ít lâu sau, chiến dịch đánh phủ đầu nhằm bình định Iran trong thời gian ngắn đã biến thành một cuộc chiến tiêu hao đẫm máu kéo dài tám năm và rồi trở thành cuộc xung đột tàn khốc nhất Trung Đông thế kỷ XX.
Hy vọng chiến thắng chớp nhoáng và thực tế bế tắc
Ngày 22/9/1980, Iraq chính thức khai màn cuộc chiến bằng một đòn không kích quy mô lớn với khoảng 200 máy bay (Mig-21, Mig-23, Sukhoi-20, Sukhoi-22) đồng loạt tấn công hàng loạt căn cứ không quân, kho nhiên liệu, bãi đỗ, đường băng và hệ thống radar của Iran. Mục tiêu của Saddam Hussein rất rõ ràng: vô hiệu hóa sức mạnh không quân Iran ngay trên mặt đất, giành ưu thế áp đảo như Israel từng làm năm 1967.
Tuy nhiên, kế hoạch này đã không đạt được kỳ vọng. Không quân Iran (IAF) vẫn giữ được phần lớn máy bay chủ lực. Một số đường băng bị bom phá hoại nhưng nhanh chóng được sửa chữa, các phi công Iran kịp di chuyển máy bay sang các căn cứ dã chiến. Chỉ trong 24 giờ, Iran phản đòn bằng “Chiến dịch Kaman 99”, huy động gần như toàn bộ không quân còn lại tấn công thẳng vào Baghdad, Kirkuk, Mosul, các kho nhiên liệu, nhà máy lọc dầu, sân bay. Những chiến đấu cơ F-4 Phantom II, F-5 Tiger II và F-14 Tomcat (do Mỹ để lại) nhanh chóng chứng minh uy lực, giáng những đòn không kích mạnh vào hạ tầng quân sự Iraq, buộc Baghdad phải từ bỏ hy vọng giành ưu thế tuyệt đối trên không ngay từ ngày đầu chiến sự.
Với đòn không kích phủ đầu không đạt được kết quả như mong đợi, Iraq nhanh chóng phát động chiến dịch tấn công trên bộ trên ba hướng chiến lược, trên một mặt trận dài hơn 600 km, với khoảng 6 sư đoàn bộ binh và thiết giáp, tổng cộng gần 70.000 quân tiến lên theo 3 hướng chính.
Hướng Nam, Iraq huy động tới 4 trên tổng số 6 sư đoàn tấn công tỉnh Khuzestan phía bên kia dòng sông Shatt al-Arab và nhanh chóng thiết lập thế trận để bao vây thị trấn quan trọng là Abadan và Khorramshahr. Đến 10/11/1980, Iraq thành công kiểm soát phần lớn Khorramshahr nhưng thất bại trước sức kháng cự kiên cường của Iran tại Abadan. Hướng trung tâm, Saddam tổ chức tấn công với ý định thọc sâu vùng đồi núi thuộc rặng núi Zagros nhằm cắt đường giao thông từ tây sang đông Iran, chia cắt miền Tây Nam khỏi phần còn lại. Quân đội Iraq chiếm được Mehran và Dehloran nhưng chững lại trước Dezful, một trung tâm then chốt ở Tây Nam Iran do sức kháng cự mạnh mẽ từ Sư đoàn Thiết giáp 92 Iran và dân quân địa phương. Tại hướng Bắc, Quân Iraq chiếm được Qasr-e Shirin và đe dọa Sarpol-e Zahab nhưng vì thiếu lực lượng cơ động và địa hình đồi núi bất lợi nên không thể tiến công và chủ động thiết lập phòng tuyến Suleimaniya để bảo vệ tổ hợp lọc dầu Kirkuk.
Chiến dịch trên bộ của Saddam Hussein, dù giành được một số thắng lợi ban đầu khi kiểm soát được một số khu vực biên giới và trung tâm đô thị lớn là Khorramshahr ở tỉnh Khuzestan nhưng lại thất bại nặng nề về mặt chiến lược khi không giành được chiến thắng chớp nhoáng hay gây tổn thất không thể phục hồi cho Iran mà còn tạo thời gian cho Iran tập hợp lại lực lượng cùng sự ủng hộ mạnh mẽ từ dân chúng. Chính bởi những đòn đánh thiếu hiệu quả này trong giai đoạn đầu xung đột này khiến Iraq dần sa lầy trong một cuộc chiến tiêu hao kéo dài.
Phản công toàn diện: Từ Khorramshahr đến Kut–Majnoon
Chiến sự giằng co suốt nhiều tháng cho đến khi Iran dần ổn định lại lực lượng, từng bước giành lại thế chủ động và chuẩn bị những đòn phản công quy mô lớn. Đỉnh điểm là chiến dịch tái chiếm Khorramshahr ở tỉnh Khuzestan với khoảng 70.000–90.000 quân Iran tham chiến. Vào hôm 24/5/1982, sau 575 ngày nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Iraq, Khorramshahr chính thức trở về tay Iran. Khoảng 19.000 binh sĩ Iraq bị bắt sống, hàng nghìn xe tăng, xe thiết giáp và pháo hạng nặng bị bỏ lại ven bờ sông đầy bùn lầy. Đây là bước ngoặt buộc Saddam Hussein phải ra lệnh rút lui dần phần lớn quân Iraq khỏi lãnh thổ Iran về phòng thủ dọc biên giới, trao thế chủ động trên chiến trường cho Tehran.
Chưa đầy hai tuần sau thất bại nặng nề ở Khorramshahr, ngày 6/6/1982, Israel bất ngờ phát động cuộc xâm lược quy mô lớn vào miền Nam Liban. Tận dụng biến động này, chính quyền Saddam Hussein tuyên bố đơn phương rút quân khỏi phần lãnh thổ còn chiếm đóng của Iran và đưa ra đề nghị ngừng bắn. Theo Baghdad, hai nước Hồi giáo nên chấm dứt chiến sự, lập liên quân hỗ trợ Palestine chống Israel trên mặt trận Liban. Tuy nhiên, Tehran nhanh chóng từ chối và tuyên bố sẽ tiếp tục chiến đấu đến khi lật đổ chính quyền Saddam Hussein (Ngày 22 tháng 6, tổng tư lệnh quân đội Iran Shirazi tuyên bố "tiếp tục đánh cho đến khi lật đổ chế độ Saddam Hussein để chúng ta có thể cầu nguyện ở Karbala và Jerusalem"). Chính sự khước từ này đã khiến cuộc chiến leo thang lên một giai đoạn đẫm máu và dữ dội hơn bội phần.
Với thế chủ động chiến trường trong tay sau khi quân đội Iraq buộc phải rút về lập thế trận phòng thủ, Iran nhanh chóng tập hợp lực lượng và phản công sâu vào lãnh thổ đối phương, với tham vọng lớn đầu tiên là chiếm thành phố Basra. Vào giữa tháng 7/1982, các đơn vị Iran với ước tính từ 120.000–150.000 quân bắt đầu vượt biên giới tiến đến Basra trong Chiến dịch Ramadan. Dù lực lượng tấn công chủ lực là Vệ binh Cách mạng (IRGC) và quân đội chính quy (Artesh), nhưng phần lớn đội hình vẫn là dân quân tình nguyện Basij - những người ít kinh nghiệm tác chiến quy mô lớn.
Tuy nhiên, Iraq đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho tuyến phòng thủ chiến lược này với các hệ thống hào nước, bãi mìn, hàng rào thép gai, đồng lầy ngập nước và các phòng tuyến nhiều lớp được yểm trợ bởi pháo binh hạng nặng và không quân. Thế trận nhanh chóng biến khu vực ngoại vi Basra thành một “chiến trường kiểu Thế chiến thứ nhất khi những đợt công kích biển người đẫm máu của Iran vấp phải sức kháng cự quyết liệt từ lực lượng Iraq. Hàng vạn binh sĩ Iran, chủ yếu là lực lượng tiên phong Basij và Vệ binh Cách mạng, đã nhiều lần vượt qua kênh rạch, đầm lầy và bãi lửa, nhưng do thiếu xe bọc thép mạnh cùng pháo binh yểm trợ, các đợt tấn công đã chịu tổn thất nhân mạng khổng lồ mà vẫn không thể đột phá vào nội đô Basra.
Sở dĩ Iran bất chấp tổn thất khổng lồ mà quyết giành bằng được Basra là bởi thành phố này mang ý nghĩa sống còn với Iraq. Basra không chỉ là cửa ngõ chiến lược ra Vịnh Ba Tư mà còn là tuyến xuất khẩu dầu mỏ chủ lực. Đây nguồn ngoại tệ duy nhất nuôi dưỡng cỗ máy chiến tranh của Baghdad. Nếu kiểm soát được Basra, Iran có thể bóp nghẹt kinh tế Iraq, cắt đường ra biển và mở đường uy hiếp sâu hơn vào nội địa. Ngược lại, Saddam Hussein hiểu rõ mất Basra đồng nghĩa mất mạch máu chiến tranh, mất tinh thần binh sĩ và có nguy cơ châm ngòi cho bất ổn trong cộng đồng Shia miền Nam.
Sau thất bại nặng nề ở Basra, Iran không từ bỏ tham vọng chọc thủng tuyến phòng thủ phía Nam Iraq. Từ cuối năm 1983 sang đầu 1984, Tehran mở các chiến dịch tấn công lớn như Operation Kheibar, tập trung vào các mục tiêu chiến lược dọc theo tuyến đường nối Baghdad tới Basra. Iran huy động hàng chục nghìn quân, chủ yếu là Vệ binh Cách mạng (IRGC) và dân quân Basij, tấn công qua đầm lầy Haur al-Hawizeh. Các đợt “biển người” tràn qua địa hình lầy lội đã buộc quân Iraq phải co cụm phòng thủ và dồn quân tiếp viện từ các mặt trận khác. Sau những nỗ lực tiến quân dồn dập, Iran cũng đạt được một số thành công lớn khi chiếm được thành phố Kut và mỏ dầu Majnoon.
Đứng trước nguy cơ tuyến đường huyết mạch Baghdad–Basra bị cắt đứt, Saddam Hussein ra lệnh lần đầu tiên sử dụng vũ khí hoá học quy mô lớn trên mặt trận này, chủ yếu là khí mù tạt (mustard gas) và sau đó là sarin, nhằm ngăn chặn làn sóng xung phong của bộ binh Iran. Các đầm lầy mênh mông biến thành “bẫy khí độc” khiến Iran hứng chịu thương vong nặng nề mà không thể triển khai xe thiết giáp hay pháo binh hỗ trợ.
Việc Iraq sử dụng vũ khí hoá học tại Kut–Majnoon đã tạo tiền lệ cho các trận đánh sau này bởi bất cứ khi nào Iran mở các chiến dịch biển người quy mô lớn, Baghdad đều sẵn sàng đáp trả bằng khí độc. Đây cũng là bước leo thang mới biến cuộc chiến Iran–Iraq thành một trong những cuộc xung đột vũ khí hoá học nghiêm trọng nhất thế kỷ XX.
Vũ khí hóa học và bàn tay của các ông lớn
Lúc này, chúng ta cần quan sát một chút lên mặt trận phía Bắc, nơi một cuộc nổi dậy lớn của người Kurd đang bùng phát dữ dội. Đây là cộng đồng dân tộc thiểu số chiếm khoảng 15–20% dân số Iraq, vốn đã nhiều lần vùng dậy trong các thập niên trước nhưng luôn bị chính quyền Baghdad đàn áp tàn bạo. Trong Chiến tranh Iran–Iraq, Tehran đã âm thầm và đôi khi công khai hỗ trợ các nhóm vũ trang người Kurd với nhóm chính là (PUK) và một phần (KDP). Dù vậy, giai đoạn 1981–1982, các lực lượng này mới chỉ duy trì mức độ kháng chiến nhỏ lẻ, mang tính quấy rối.
Tình hình thay đổi đột ngột vào mùa xuân và hè năm 1983. Trong khi Iran đẩy mạnh chiến dịch ở Khuzestan, lực lượng PUK phát động một đợt nổi dậy quy mô lớn ở miền Bắc Iraq. Tháng 8/1983, các đơn vị Peshmerga áp sát thành phố dầu mỏ chiến lược Kirkuk của Iraq và khi Saddam nhận thấy nguy cơ mặt trận phía Bắc sụp đổ, ông không chỉ ra lệnh điều quân chính quy mà còn triển khai các chiến dịch phản công khốc liệt nhằm nghiền nát lực lượng người Kurd. Từ cuối 1983, chính quyền Iraq bắt đầu áp dụng các biện pháp cực đoan, trong đó có việc sử dụng vũ khí hoá học - bước đi mà trước đó Baghdad mới chỉ thử nghiệm hạn chế ở một vài mặt trận miền Nam.
Việc sử dụng khí độc và tác chiến hoá học ban đầu được Iraq triển khai rải rác để đẩy lùi quân Iran khỏi các mỏ dầu then chốt như Majnoon, Kut. Tuy nhiên, khi lực lượng Peshmerga Kurd phối hợp dần với các chiến dịch tấn công của Iran và tạo ra những tác động không nhỏ lên mặt trận, chính quyền Saddam đã coi người Kurd là mối đe dọa nội địa lớn nhất. Kết quả là các đợt không kích và pháo kích hoá học của Iraq được mở rộng quy mô sử dụng ra nhiều làng mạc, thị trấn do PUK kiểm soát.
Đỉnh điểm cho chuỗi hành động diệt chủng này chính là vụ thảm sát Halabja năm 1988. Khi lực lượng PUK phối hợp với quân Iran tấn công Kirkuk và nhiều khu vực miền Bắc, quân đội Iraq đã ném bom khí độc sarin, tabun và hơi mù tạt xuống thị trấn Halabja, giết chết hơn 5.000 dân thường với phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Đây là một trong những vụ tấn công hoá học tàn bạo nhất kể từ Thế chiến II.
Tới đây, có lẽ nhiều người sẽ đặt câu hỏi: Giữa lúc vũ khí hoá học được sử dụng trắng trợn, hàng chục nghìn thường dân bao gồm cả Iran lẫn Kurd thiệt mạng, thì cộng đồng quốc tế và các cường quốc ở đâu? Câu trả lời phũ phàng là: Họ không chỉ biết rõ mà còn âm thầm góp phần duy trì cuộc chiến đẫm máu này.
Mỹ, Liên Xô, các nước phương Tây và nhiều quốc gia Arab lúc ấy đều có lý do riêng để ngăn Iran giành chiến thắng. Với Mỹ, mục tiêu lớn nhất là chặn ảnh hưởng tư tưởng Hồi giáo cách mạng lan rộng, đe dọa trực tiếp các đồng minh then chốt ở Trung Đông như Ả Rập Xê Út và các tiểu vương quốc vùng Vịnh. Liên Xô cũng lo sợ làn sóng Hồi giáo cực đoan từ Iran tràn sang các nước Trung Á thuộc Liên Xô, nơi có hàng chục triệu tín đồ Hồi giáo (Uzbekistan, Tajikistan, Turkmenistan…) và có thể đe dọa nghiêm trọng ảnh hưởng của Moscow tại Afghanistan nơi Hồng quân đang sa lầy trong cuộc chiến 1979–1989. Thêm vào đó, dù không hẳn là đồng minh chặt chẽ, Iraq vẫn là đối tác quan trọng của Liên Xô trong khu vực. Đây là một trong những lần hiếm hoi mà Mỹ và Liên Xô bất chấp Chiến tranh Lạnh vẫn gần như đứng cùng một chiến tuyến khi lợi ích chiến lược tại Vùng Vịnh bị đe doạ. Chính vì thế, các cường quốc đã cung cấp tài chính, vũ khí, công nghệ lưỡng dụng, chia sẻ thông tin tình báo và gần như làm ngơ trước làn sóng phản đối việc Iraq lạm dụng vũ khí hoá học để giúp Saddam duy trì cỗ máy chiến tranh.
Bên cạnh đó vào giữa những năm 1980, còn có một vụ bê bối liên quan đến quan hệ Mỹ và Iran trong khoảng thời gian này mà ít được nhắc đến trên truyền thông là vụ bê bối Iran-Contra, một trong những scandal chính trị tai tiếng nhất của nước Mỹ thế kỷ 20. Chính quyền Tổng thống Ronald Reagan, trong khi công khai phát động “Chiến dịch Staunch” để ép các nước đồng minh chặn mọi nguồn bán vũ khí cho Iran và ngầm ủng hộ Iraq, thì chính ông lại cho xúc tiến quá trình bí mật bán vũ khí cho Tehran qua sự trung gian của Israel. Động cơ sâu xa của hành động trên là nhằm giải cứu các công dân Mỹ bị các nhóm Hồi giáo Shia thân Iran (như Hezbollah) bắt giữ ở Lebanon. Một số con tin Mỹ thực sự được thả sau những chuyến hàng đầu tiên và đổi lại thì Nhà Trắng để Israel làm trung gian bán vũ khí cho Iran với chủ yếu là tên lửa chống tăng TOW, phụ tùng máy bay chiến đấu F-4, F-14 mà Iran đang khát phụ tùng để duy trì hoạt động không quân.
Mọi chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói cho đến khi vị trung tá Oliver North của Hội đồng An ninh Quốc gia tự ý chuyển 1 phần lợi nhuận thu được từ các lô vũ khí Iran sang tài trợ cho lực lượng phiến quân Contra ở Nicaragua (đây là một phe nổi dậy chống chính quyền cánh tả Sandinista mà Quốc hội Mỹ đã cấm viện trợ). Vụ Iran–Contra vỡ lở vào cuối năm 1986 khi báo chí Lebanon và các cuộc điều tra Quốc hội Mỹ phanh phui các tài liệu mật kéo theo các cuộc điều tra của Quốc hội và Tổng thống, nhiều quan chức cấp cao từ chức hoặc bị truy cứu. Vụ việc này đã trở thành vết nhơ chính trị lớn suốt những năm cuối nhiệm kỳ Reagan và cũng làm chiến trường Iran–Iraq thêm phức tạp, vì Tehran có thêm đạn dược, phụ tùng thay thế để duy trì sức chiến đấu.
Cuộc chiến tàu chở dầu: Vùng Vịnh rực lửa
Sau những đợt phản công trên bộ rơi vào bế tắc, Iraq bắt đầu mở rộng chiến tranh ra biển, nhắm vào các tàu chở dầu của Iran và các cơ sở xuất khẩu dầu, đặc biệt là đảo Kharg — nút xuất khẩu dầu chính của Tehran. Chiến dịch này bắt đầu từ năm 1984, với mục tiêu cắt đứt nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Iran, vốn phụ thuộc gần như hoàn toàn vào các tuyến vận chuyển dầu qua Vịnh Ba Tư và eo biển Hormuz.
Iran đáp trả bằng cách tấn công các tàu dầu Iraq xuất phát từ Kuwait và dần mở rộng mục tiêu sang bất kỳ tàu chở dầu nào của các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh hỗ trợ tài chính cho Baghdad. Tehran công khai tuyên bố mọi tàu bè tiếp tay cho Iraq đều là mục tiêu hợp pháp. Từ 1984–1987, hàng trăm tàu dân sự, tàu dầu, tàu hàng trung lập bị trúng tên lửa, đạn pháo, mìn hoặc bị tập kích bằng xuồng cao tốc. Vịnh Ba Tư trở thành tuyến hải trình nguy hiểm nhất thế giới thời điểm đó.
Kuwait là nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ các đợt tấn công trả đũa của Iran nên đã kêu gọi Mỹ và Liên Xô can thiệp để đảm bảo an toàn cho tuyến vận tải dầu. Trước sức ép này, Washington quyết định can thiệp trực tiếp vào năm 1987 với Chiến dịch Earnest Will nhamfw cho phép tái đăng ký các tàu dầu Kuwait dưới cờ Mỹ và điều đội tàu hộ tống áp sát eo Hormuz để bảo vệ các đoàn tàu chở dầu.
Hải quân Mỹ và Iran sau đó nhiều lần đụng độ trực tiếp trên Vịnh. Đỉnh điểm là sự kiện tàu hộ vệ USS Stark (Mỹ) bị máy bay Mirage F1EQ của Iraq bắn nhầm bằng hai quả tên lửa Exocet vào tháng 5/1987, khiến 37 thủy thủ Mỹ thiệt mạng. Dù Iraq xin lỗi và nói là nhầm lẫn, vụ việc phơi bày rủi ro khổng lồ khi Mỹ nhúng tay vào xung đột. Căng thẳng ngày càng leo thang thành các trận đánh quy mô thực sự. Tháng 4/1988, Mỹ phát động Chiến dịch Praying Mantis, phá hủy nhiều tàu chiến, tàu tuần tra, giàn tên lửa phòng thủ và cả các giàn khoan dầu của Iran sau khi một tàu chiến Mỹ trúng mìn do Iran rải.
Trong giai đoạn này cũng xảy ra thảm kịch Chuyến bay 655 của Iran Air vào ngày 3/7/1988, tàu USS Vincennes của Mỹ bắn nhầm máy bay chở khách Airbus A300, giết chết toàn bộ 290 hành khách và phi hành đoàn. Hải quân Mỹ biện minh rằng chiếc Airbus đã bị nhầm là máy bay tiêm kích F-14 Tomcat của Iran và có đường bay đe dọa (Tuy nhiên, một số dữ liệu khác về đường bay và vị trí cho thấy máy bay thương mại này đang tăng độ cao trong vùng trời lãnh hải Iran và không phải là mối đe dọa với tàu chiến của Mỹ, sự cố này đã dẫn đến tranh cãi và chỉ trích quốc tế kéo dài)
Cuộc chiến tàu chở dầu khiến cả hai bên thiệt hại nặng nề về kinh tế và nhân mạng. Đồng thời, cuộc chiến này biến Vịnh Ba Tư thành điểm nóng quốc tế, kéo Mỹ và Liên Xô trực tiếp can thiệp quân sự, đẩy xung đột lên quy mô toàn khu vực, tạo tiền lệ cho các can thiệp sâu hơn của Mỹ vào Trung Đông về sau.
Bế tắc chiến trường và lệnh ngừng bắn không thể tránh
Cuối giai đoạn xung đột, cuộc chiến trên bộ giữa Iran và Iraq dần rơi vào thế bế tắc kéo dài. Không bên nào đủ sức giành thắng lợi dứt điểm khi Iran có lực lượng bộ binh hùng hậu, tinh thần quyết chiến cao, nhưng thiếu hỏa lực hạng nặng, nhất là pháo tự hành và yểm trợ không quân hiện đại. Ngược lại, quân đội Iraq được Liên Xô và phương Tây hỗ trợ vũ khí, không quân và pháo binh mạnh, nhưng lại bị phân tán lực lượng, nhiều mũi phòng thủ phải duy trì đồng thời ở miền Nam lẫn miền Bắc.
Iraq bắt đầu chiến dịch không kích quy mô lớn nhắm vào các thành phố Iran từ năm 1985. Không quân Iraq oanh tạc thủ đô Tehran và nhiều thành phố lớn khác, đồng thời triển khai tên lửa Scud và biến thể Al-Hussein tấn công các trung tâm dân cư. Để trả đũa, Iran cũng bắn tên lửa Scud do Libya và Syria cung cấp sang Baghdad và các thành phố lớn của Iraq. Tổng cộng, Iraq phóng khoảng 520 tên lửa, còn Iran đáp trả bằng ít nhất 177 quả.
Mặt trận trên bộ vẫn tiếp diễn những nỗ lực tấn công quyết liệt. Đỉnh điểm là Chiến dịch Karbala-5 (đầu 1987) khi Iran tung lực lượng quy mô lớn nhằm chiếm Basra — mục tiêu then chốt để chặn nguồn xuất khẩu dầu của Iraq ra Vịnh Ba Tư. Tuy nhiên, phòng tuyến kiên cố và hỏa lực dữ dội của Iraq đã bẻ gãy đợt tấn công, khiến hàng chục ngàn binh sĩ Iran thương vong mà không chiếm được thành phố. Ở miền Bắc, Iran tạm gặt hái một số thành công trong các Chiến dịch Nasr 4 và Karbala-10, áp sát các mỏ dầu chiến lược quanh Kirkuk. Nhưng các chiến thắng cục bộ này không đủ giúp Tehran duy trì ưu thế vì Iraq nhanh chóng điều lực lượng phản công, tái chiếm phần lớn lãnh thổ đã mất.
Trong tuyệt vọng, Iraq đẩy mạnh sử dụng vũ khí hóa học trên diện rộng. Từ việc dùng khí độc để chặn bước tiến của Iran ở miền Nam, Baghdad mở rộng ra các cuộc tấn công diệt chủng dân thường người Kurd, như Halabja (tháng 3/1988) và Zardan (tháng 7/1988). Các đợt không kích và pháo kích hóa học này đã gieo rắc thương vong khủng khiếp, gây hoang mang trong dân thường và bộ binh Iran.
Tháng 4/1988, quân Iraq giành lại thế chủ động bằng hoạt động tái chiếm bán đảo al-Faw (đã mất năm 1986), mở các mũi tấn công sâu vào lãnh thổ Iran, giành lại vùng đất ven Basra và các khu vực miền Bắc. Sau các thất bại liên tiếp, Tehran dần kiệt quệ về nhân lực, tài chính, thiết bị quân sự, và không còn hy vọng mở rộng chiến tranh quy mô lớn để đạt chiến thắng toàn diện. Dù từng tính đến khả năng mở chương trình vũ khí hạt nhân, lãnh đạo Iran cuối cùng kết luận đó là mục tiêu ngoài tầm với.
Trước sức ép nội bộ và quốc tế, ngày 20/7/1987, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 598 kêu gọi hai bên chấm dứt chiến sự và trở lại đường biên trước chiến tranh. Iraq vốn đã mất nhiều vùng đất nên nhanh chóng chấp nhận nghị quyết. Nhưng Tehran, tin rằng vẫn còn cơ hội lật ngược tình thế, từ chối ngay lập tức. Mãi đến khi Iraq phản công mạnh, gây tổn thất lớn cuối năm 1987 — giữa 1988, Iran mới chấp nhận ký kết lệnh ngừng bắn ngày 20/8/1988, khép lại cuộc chiến kéo dài gần 8 năm với những tổn thất không đếm xuể về người và của để rồi ai về nhà nấy và không bên nào thực sự thắng cuộc.
Phần Kết
Cuộc chiến kết thúc với đường phân định lãnh thổ trở về nguyên trạng trước khi bắt đầu xung đột nhưng những hậu quả sau 8 năm chiến sự là không thể chối cãi. Cuộc chiến đã khiến 2 quốc gia chịu tổn thất cực lớn về người và vật chất, nhiều người vẫn xem đây là một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất kể từ Thế chiến II. Iran ước tính chịu 1 triệu thương vong, chết hay bị thương, và người dân Iran tiếp tục bị ảnh hưởng hay thiệt mạng bởi những hậu quả của các loại vũ khí hóa học do Iraq sử dụng. Thương vong của Iraq ước tính trong khoảng 300.000–500.000. Hàng nghìn dân thường ở cả hai phía chết sau những vụ tấn công không quân hay tên lửa cùng nhiều hộ gia đình mất nhà cửa.
Thiệt hại tài chính cũng rất to lớn, ở thời điểm đó vượt quá US$600 tỷ cho mỗi nước (tổng cộng US$1.2 nghìn tỷ). Phát triển kinh tế đình trệ và hoạt động xuất khẩu dầu mỏ chịu thiệt hại lớn. Những tai họa kinh tế đó ở mức độ nghiêm trọng hơn với Iraq vì họ phải gánh chịu những khoản vay to lớn cho chiến tranh so với một khoản nợ nhỏ phía Iran, bởi người Iran sử dụng các chiến thuật biển máu nhưng ít tốt kém về kinh tế trong cuộc chiến, đổi mạng sống của binh lính cho việc thiếu hụt tài chính trong chiến đấu.
Đến đây có lẽ nhiều người sẽ có chung thắc mắc cuộc chiến tàn khốc qua 8 năm này như thế ngoài thiệt hại về của và người cho 2 quốc gia tham chiến trực tiếp thì có tác động lớn gì đến cán cân quyền lực và ổn định trong khu vực hay không. Câu trả lời dĩ nhiên là rất rất nhiều và gần như mọi xung đột trong khu vực suốt bốn thập kỷ sau này đều ít nhiều mang dấu vết của nó.
Về phía Iran, ký ức về một cuộc chiến tiêu hao với cả thế giới gần như làm ngơ trước vũ khí hóa học của Iraq đã gieo sâu tâm lý rằng nếu không thể tự chủ về vũ khí, đặc biệt là vũ khí răn đe, thì Tehran sẽ luôn ở thế yếu. Chính tư tưởng tự lực cánh sinh này đã thúc đẩy Iran phát triển hạ tầng công nghiệp quốc phòng riêng, đầu tư mạnh cho chương trình hạt nhân dù nhiều lần bị phương Tây nghi ngờ là bước đệm để sở hữu bom nguyên tử. Hệ lụy là hàng loạt căng thẳng với Mỹ, Israel và các đồng minh vùng Vịnh, mà cho đến nay vẫn chưa có hồi kết.
Về mặt địa chính trị, cuộc chiến Iran–Iraq cũng làm sâu sắc thêm sự chia rẽ giữa Iran với các quốc gia Arab Sunni, đặc biệt là Ả Rập Xê Út. Hai quốc gia này bước vào một cuộc chiến ủy nhiệm dai dẳng ở khắp nơi như Liban, Syria, Yemen, tạo thành mạng lưới các nhóm vũ trang Hồi giáo với mức độ ảnh hưởng ngày càng phức tạp. Cũng từ đó, Israel vốn lo ngại tầm ảnh hưởng của Tehran với các nhóm Hezbollah hay Hamas đã ngày càng siết chặt quan hệ an ninh với Mỹ và các vương quốc Arab thân Mỹ, hình thành những liên minh kẻ thù của kẻ thù là bạn mà ta thấy rõ ngày nay.
Riêng về phía Iraq, hậu quả tài chính từ cuộc chiến là thảm họa. Saddam Hussein đã vay mượn khối lượng khổng lồ từ các nước Arab vùng Vịnh đặc biệt là Kuwait và Saudi Arabia để nuôi dưỡng cỗ máy chiến tranh. Khi chiến tranh kết thúc, Iraq lâm vào khủng hoảng nợ nần và thiếu ngoại tệ trầm trọng. Mâu thuẫn về khoản nợ, cộng thêm tranh chấp khai thác dầu ở biên giới, đã trở thành cái cớ để Saddam đưa quân xâm chiếm Kuwait năm 1990. Đó chính là mồi lửa thổi bùng Chiến tranh vùng Vịnh khi đây là lần đầu tiên Mỹ và liên minh phương Tây triển khai quy mô lớn để can thiệp trực tiếp, mở đường cho những can thiệp sau này, đỉnh điểm là cuộc xâm lược Iraq 2003.
Tàn tích của cuộc chiến Iran–Iraq vì thế không chỉ nằm ở những nghĩa trang binh lính dài dằng dặc dọc biên giới Basra–Khorramshahr, mà còn âm ỉ trong từng mối hận thù, từng cuộc chạy đua vũ trang và những chiến trường ủy nhiệm chưa bao giờ dứt trong lòng Trung Đông cho tới tận ngày nay.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

