Chiến tranh Hussite: 5 lần Thập tự chinh thất bại tại Bohemia
Đây là một bài dịch từ "Hussite Wars" của tác giả Joshua J. Mark trên worldhistory.org, link bài viết gốc: ...
Đây là một bài dịch từ "Hussite Wars" của tác giả Joshua J. Mark trên worldhistory.org, link bài viết gốc:
Một số chú thích:
"kh.": khoảng; "sn.": sinh năm; "m.": mất
Định nghĩa
Chiến tranh Hussite (1419 - kh. 1434) là một chuỗi những xung đột diễn ra tại Bohemia (Cộng hòa Séc ngày nay) giữa những người ủng hộ nhà cải cách Jan Hus với những người Công giáo trung thành vào cuối Phong trào cải cách Bohemia (kh. 1380 - kh. 1436). Mặc dù Công giáo là phe chiến thắng, những người Hussite đã giành được quyền tự do tôn giáo mà họ đã đấu tranh suốt nhiều năm.

Chiến tranh Hussite (không rõ tác giả)
Cuộc chiến bắt nguồn trực tiếp sau việc hành hình Jan Hus (sn. 1369 - m. 1415) năm 1415, theo đó là việc xử tử bạn và đồng sự của ông là Jerome xứ Prague (sn. 1379 - m. 1416) một năm sau đó, sau khi cả hai bị kết án là dị giáo bởi Giáo hội Công giáo. Phong trào cải cách Bohemia - là một nỗ lực có hệ thống đầu tiên của các giáo sĩ Công giáo nhằm cải tổ những tha hóa và áp bức của Giáo hội thời trung cổ - bắt đầu từ khoảng năm 1380 những đã trở nên cấp tiến hơn sau năm 1416, dẫn đến tình trạng bất ổn xã hội bùng nổ vào năm 1419 khi Hussite Jan Želivský (sn. 1380 - m. 1422) dẫn đầu một đoàn rước qua thành phố, sự kiện này kết thúc bằng Vụ Ném người qua cửa sổ lần thứ nhất tại Prague vào ngày 30 tháng 7, dẫn đến cái chết của 7 thành viên hội đồng thành phố.
Hus và Jerome được tôn vinh như những vị tử đạo (về sau là thánh), và những người ủng hộ Hus hết sức tận tâm về sự nhiệp của ông, nhưng họ không phải là một liên minh thống nhất. Điều duy nhất gắn kết họ là một kẻ thù chung: Giáo hội Công giáo và lực lượng Giáo hội dưới quyền hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh Sigismund xứ Hungary (sn. 1368 - m. 1437), người đã được Giáo hoàng cho phép lãnh đạo cuộc Thập tự chinh chống lại "dị giáo Bohemia". Mỗi khi tướng Hussite Jan Žižka (sinh khoảng 1360 - m. 1424) đánh bại Sigismund trong một trận - và Žižka thắng tất cả những lần họ giao chiến - thì các phe Hussite lại quay sang đánh nhau.
Chiến tranh Hussite thường được nhắc đến vì chiến thuật của Žižka và việc sử dụng súng hỏa mai từ rất sớm trong các cuộc xung đột quân sự ở châu Âu.
Žižka, một chiến thuật gia thiên tài, đã tận dụng hỏa khí và các thành lũy xe kéo (wagon fort) trong cả phòng thủ lẫn tấn công, liên tục khiến đối thủ bất ngờ trước sự cơ động của những công sự di động này. Chiến tranh Hussite thường được nhắc đến nhờ chiến thuật của Žižka và mở đồng cho việc sử dụng hỏa khí trong các cuộc xung đột quân sự tại châu Âu.
Žižka qua đời vì dịch hạch vào năm 1424 và được thay thế bởi Prokop Táo bạo (còn được biết đến là Prokop Vĩ đại, sinh khoảng năm 1380 - m.1434), cũng là một nhà chỉ huy quân sự tài năng. Như Žižka, ông không thành công hơn trong công cuộc thống nhất các phe phái Hussite. Tuy vậy, trong trân Lipany năm 1434, phe Hussite Ôn hòa đã liên minh với Công giáo chống lại phe Cấp tiến. Phe ôn hòa (Utraquists) và Công giáo đã đánh bại phe cấp tiến (Taborites), chấm dứt xung đột. Sau đó, Utraquists được trao quyền tự do tôn giáo tại Công đồng Basel năm 1346, khép lại cả Chiến tranh Hussite và Phong trào Cải cách Bohemia, mặc dù những vấn đề về tôn giáo vẫn tiếp tục gây ra xung đột sau này.
Bối cảnh
Mặc dù Chiến tranh Hussite được châm ngòi bởi việc Jan Hus bị hành hình, Phong trào cải cách Bohemia đã diễn ra trong nhiều thập kỉ, và những lời kêu gọi cải cách, cũng như sự đối kháng với Giáo hội Công giáo La Mã vốn cũng chẳng phải là một vấn đề mới. Các linh mục và nhà thần học người Bohemia đã kêu gọi cải cách từ trước năm 1380. Giáo hội đã chia thành Giáo hội Công giáo La Mã ở phương Tây và Giáo hội Chính thống phương Đông vào năm 1054 (Cuộc Đại ly giáo), Đại ly giáo, với nhiều nhà cải cách, nó cho thấy những vấn đề nghiêm trọng trong tầm nhìn và chính sách của Giáo hội.
Giáo hội Bohemia được thành lập bởi các nhà truyền giáo từ Giáo hội Chính thống phương Đông, nhưng sau đó phát triển theo các chính sách của Giáo hội Công giáo La Mã. Do đó, các giáo sĩ ở Bohemia đã chậm trễ trong việc chấp nhận và thực thi những chính sách này, vì ban đầu họ đã được cho tự phát triển theo cách riêng. Quyền uy của Giáo hội La Mã tiếp tục bị thách thức ở Bohemia khi Giáo hội này bị chia rẽ trong cuộc Đại ly giáo Tây phương (1378–1417), trong đó có hai, rồi sau đó là ba giáo hoàng đều tuyên bố mình là giáo hoàng hợp pháp và tất cả đều yêu cầu dân chúng nộp cống. Học giả Francis Lutzow nhận xét:
Do vị trí địa lý của mình, trong một thời gian dài Bohemia ít phải chịu cảnh bị các giáo hoàng La Mã bóc lột hơn so với nhiều quốc gia khác. Chỉ khi đến cuộc ly giáo, các giáo hoàng đối địch mới nhận ra rằng số lượng quốc gia họ có thể thu cống đang ngày một giảm xuống, thì những yêu sách của La Mã đối với Bohemia mới trở nên cấp bách và thường xuyên hơn. Sự bất mãn do lòng tham của các giáo hoàng đối địch, mà những cuộc đối địch kịch liệt của họ cũng chẳng giúp gì cho việc nâng cao uy tín của Giáo hội phương Tây trong con mắt người Bohemia, đã tìm được trung tâm của mình tại Đại học Prague. (12)
Jan Hus được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Đại học Prague vào năm 1402, cùng năm đó ông được tiếp cận những tác phẩm của nhà cải cách người Anh John Wycliffe (sn. 1330 - m. 1384) nhờ sự giới thiệu từ người bạn Jerome xứ Prague của ông. Wycliffe đã lên án sự lạm dụng và những chính sách phản Kinh thánh của Giáo hội tại Anh, ông đặc biệt chỉ ra rằng việc bán sự ân xá không gì hơn chỉ là lòng tham và đồng thời đặt ra nghi vấn về thẩm quyền của giáo hoàng cũng như chính sách sở hữu đất đai của Giáo hội, cùng với những tha hóa nghiêm trọng khác của giáo lý của chúa Jesus.

Tượng đài Jan Hus
Hus chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi những tác phẩm của Wycliffe và bắt đầu giảng dạy những tư tưởng của riêng mình tại hai buổi thuyết giảng mỗi Chủ nhật tại Nhà nguyện Bethlehem, nơi được thành lập với mục tiêu rằng các buổi lễ sẽ được tiến hành bằng tiếng Séc chứ không phải tiếng Latin. Nhờ vậy, ông có thể trực tiếp nói chuyện với giáo dân của mình (những người không biết tiếng Latin, ngôn ngữ được sử dụng trong các buổi lễ Công giáo), và với niềm nhiệt huyết cùng tài hùng biện, cộng thêm việc truyền bá các ý tưởng qua những tờ truyền đơn in khắc gỗ, ông đã lan rộng phong trào kêu gọi cải cách khắp cả vùng.
Ông bị gọi đến Hội đồng Constance để giải trình theo một tờ giấy trong đó có nội dung bảo đảm an toàn cho ông vào năm 1414, nhưng ông đã bị phản bội, bỏ tù và bị xử tử vào tháng 7 năm 1415. Jerome xứ Prague, người đã bào chữa cho Hus, cũng đã bị đem lên giàn thiêu một năm sau đó. Những người ủng hộ Hus, còn được gọi là Hussite, sau đó bắt đầu công khai phản đối các chính sách của Giáo hội, dẫn đến việc bùng nổ chiến tranh Hussite
Vụ Ném người qua cửa sổ lần thứ nhất tại Prague
Mặc dù các nhà thuyết giáo Hussite đã ngay lập tức lên án các vụ hành quyết, cũng như vụ trước đó, cuộc biểu tình công khai đầu tiên được lãnh đạo bởi linh mục Jan Želivský, người đã tổ chức một đoàn rước qua Prague để phản đối quyết định không trả tự do cho những tù nhân Hussite của hội đồng thành phố. Vào một số thời điểm, những viên đá bị ném từ cửa sổ tòa thị chính vào đám đông biểu tình, một trong số chúng đã trúng Želivský, ông sau đó đã đáp trả bằng việc dẫn những người ủng hộ xông vào tòa nhà và ném 7 thành viên hội đồng thành phố ra ngoài cửa sổ tầng trên xuống đất khiến họ thiệt mạng - sự kiện này được biết đến như là Vụ Ném người qua cửa sổ lần thứ nhất tại Prague (vì sau này còn có nhiều lần khác). Học giả Brad S. Gregory nhận xét:
Ngày 30 tháng 7 năm 1419, nhà thuyết giáo cấp tiến Jan Želivský đã lãnh đạo cuộc biểu tình dẫn tới sự kiện ném người qua cửa sổ tại Prague và việc phe Hussite tiếp quản thành phố. Một tuần trước đó, ông đã kịch liệt chỉ trích những nhà chức trách chịu trách nhiệm xử tử các vị tử đạo: "Giết người vì ác ý là sát nhân," ông nói. "Đây chính là điều đã xảy ra ở Constance, vì thế mọi kẻ đồng ý với cái chết của Thầy John Hus và Jerome, cũng như cái chết của những giáo dân bị chém đầu ở Thành cổ Prague và những người bị thiêu sống, đều là kẻ sát nhân."(69)
Việc sát hại những thành viên hội đồng thành phố đã giáng một cú bất ngờ vào chính quyền, và theo truyền thuyết, đã kích động vua Wenceslaus IV xứ Bohemia đến mức ông đã chết vì đột quỵ khi nghe tin. Người em cùng cha khác mẹ của ông, Sigismund xứ Hungary, đã kêu gọi giáo hoàng cho phép một cuộc thập tự chinh chống lại những kẻ dị giáo ở Bohemia, và chiến tranh Hussite bắt đầu. Những người Hussite đã bị bắt giữ và đem lên giàn thiêu, và vào năm 1422, Želivský bị bắt giữ, giao cho hội đồng thành phố Prague rồi sau đó bị xử tử.
Cuộc Thập tự chinh lần thứ nhất và Trận đồi Vítkov
Góa phụ của vua Wenceslaus IV, Sophia, vốn từng là một người ngưỡng mộ Jan Hus nhưng lúc bấy giờ đã chuẩn bị một đội quân lính đánh thuê và bắt đầu cuộc tấn công chống lại những người Hussite tại Prague, phá hủy một nửa thành phố. Sigismund nhận được sự cho phép lãnh đạo của thập tự chinh từ Giáo hoàng Martin V vào tháng 3 năm 1420 và nhận được sự tham gia của nhiều quý tộc Đức, những người vừa hám lợi từ việc cướp bóc mà lại vừa quan tâm đến sự xá tội mà Giáo hội hứa ban cho khi tham chiến. Quân Thập tự đã giáp mặt quân Hussite tại một cánh đồng trống, dù có quân số áp đảo là 2000 so với 400, nhưng quân Thập tự đã bị đánh bại bởi chiến thuật của Jan Jan Žižka trong trận Sudoměř (diễn ra ngày 25 tháng 3 năm 1420). Đây là lần đầu tiên Žižka sử dụng sáng kiến xe chiến (war wagon) của mình, đây đồng thời cũng là một trong những ví dụ nổi tiếng nhất về sự xuất sắc của ông trong việc lựa chọn địa hình tối ưu cho trận đánh.
Sau chiến thắng này của Hussite, cuộc thập tự chinh vẫn tiếp diễn. Sigismund và quân đội của ông đã bao vây Prague và đề nghị đàm phán trước khi xung đột leo thang. Phe Hussite đã đưa ra yêu sách trong một văn kiện gọi là "Bốn điều khoản của Prague", đòi quyền tự do giảng dạy Lời Chúa theo cách họ diễn giải, cử hành bí tích Thánh Thể cho cả giáo dân với cả bánh và rượu, cấm giáo sĩ sở hữu các điền trang lớn hoặc giữ chức vụ thế tục, và trừng phạt những kẻ phạm tội trọng dù thuộc bất kỳ tầng lớp xã hội nào.
Điều khoản thứ hai liên quan đến bí tích Thánh Thể chính là điểm tập hợp lực lượng cho phe Hussite, vì Giáo hội Công giáo quy định rằng giáo dân chỉ được nhận bánh trong lễ hiệp thông, còn rượu thì chỉ dành riêng cho linh mục. Quy định này, trong mắt người Hussite, là biểu tượng cho sự lạm dụng quyền lực của Giáo hội, họ coi điều ấy như một nỗ lực khác nhằm tách rời dân chúng khỏi sự giao hòa với Chúa, giống như việc họ cảm nhận khi Giáo hội cử hành Thánh lễ bằng tiếng Latin, dùng Kinh Thánh Latin và các lời cầu nguyện bằng tiếng Latin.
Khái niệm "tự do chén thánh" còn được gọi là utraquism ("dưới cả hai hình thức"), ám chỉ quyền tự do của giáo dân được nhận cả bánh lẫn rượu trong lễ hiệp thông. Đây là điểm duy nhất mà tất cả các phe Hussite đều đồng thuận, và hình ảnh chén thánh được khắc, thêu hoặc vẽ trên cờ hiệu cũng như khiên của họ. Tuy vậy, phong trào Hussite gồm nhiều phe phái khác nhau, bao gồm phe Utraquist ôn hòa và phe Taborite cấp tiến hơn, và mỗi phe lại có một cách diễn giải riêng về tư tưởng của Hus.
"Tự do chén thánh" (utraquism) là điểm duy nhất mà tất cả các phe Hussite đều đồng thuận, và hình ảnh chén thánh được khắc hoặc vẽ trên cờ hiệu cũng như khiên của họ.

Sigismund xứ Hungary
Sigismund đã bác bỏ "Bốn điều khoản của Prague" với lý do rằng chúng phủ nhận quyền uy của Giáo hội và vẫn tiếp tục cuộc bao vây. Tướng Hussite là Jan Žižka đã triển khai lực lượng chưa đến 100 người đến đồi Vítkov gần đó, nơi khống chế thung lũng bên dưới và có thể phòng thủ nhờ các công sự cũ hiện đã được trấn giữ. Quân đội của Sigismund, với hơn 10.000 người, đã tấn công vị trí này. Nhưng nhờ tài chỉ huy xuất sắc của Žižka, quân Sigismund đã bị đánh bật lại với thiệt hại nặng nề. Sigismund buộc phải rút quân, và chiến thắng này của phe Hussite đã thu hút thêm nhiều nam nữ tình nguyện gia nhập lực lượng bảo vệ đất nước.
Thành lũy xe kéo (Wagon forts) và Cuộc Thập tự chinh lần thứ hai
Quân đội Hussite đã đánh bại các kỵ sĩ bọc giáp nặng chủ yếu bằng nông cụ, nỏ và một số hỏa khí. Sau trận Sudoměř và đồi Vítkov, Žižka nhận ra rằng ông có thể tận dụng chính những dụng cụ làm nông và xe kéo quen thuộc của quân nông dân để tác chiến hiệu quả. Binh lính của ông vốn đã biết dùng chĩa, chày đập lúa, cung nỏ và biết cách đóng, chất hàng, cũng như điều khiển xe kéo. Ông đã sáng tạo ra thứ được gọi là Wagenburg (thành lũy xe kéo), tức những cỗ xe nông trại được gia cố để sử dụng trong chiến đấu. Sáng kiến này ra đời chủ yếu vì nhu cầu cấp bách, bởi lực lượng Hussite ban đầu được trang bị kém và thiếu cả huấn luyện lẫn kinh nghiệm quân sự.
Mỗi "thành lũy xe kéo" được biên chế khoảng 20 binh sĩ, gồm cả nam lẫn nữ, chia thành các nhóm xạ thủ nỏ, súng, lính giáo và lính dùng chày đập lúa. Các mặt xe hướng về phía địch được gia cố dày bằng gỗ và kim loại để làm lá chắn. Những cỗ xe này trở thành pháo đài di động, khi ra trận được bố trí thành hình vuông, với pháo đặt phía sau và giữa các xe. Pháo binh sẽ mở màn bằng một loạt bắn, thường gây thương vong nặng, và khi kỵ binh địch xung phong vào trận địa, súng cầm tay và nỏ sẽ bắn hạ ngựa, sau đó lính giáo cùng các chiến binh khác từ trên xe sẽ xông ra tiêu diệt các kỵ sĩ đã bị hất ngã.
Žižka đã sử dụng "thành lũy xe kéo" một cách hiệu quả trong trận Kutná Hora (Kuttenberg) vào tháng 12 năm 1421, đỉnh điểm của cuộc thập tự chinh lần thứ hai của Sigismund. Ông bố trí các cỗ xe giữa lực lượng của Sigismund và thị trấn, khi Sigismund liên tục được tăng viện, Žižka nhanh chóng bị bao vây. Ngày 21 tháng 12, thay vì đầu hàng, Žižka tổ chức các xe thành đội hình cột và dẫn chúng xung phong vào quân của Sigismund. Mỗi cỗ xe liên tục bắn phá bằng súng hỏa mai, nỏ và một dạng pháo tiền thân của lựu pháo, phá vỡ đội hình của đối phương. Žižka sau đó dẫn những “pháo đài di động” của mình rút khỏi chiến trường, trong khi Sigismund bận xử lý thương vong phe ông và chọn không truy kích.
Žižka và sự thống nhất nội bộ
Mặc dù Žižka có thể đoàn kết các phe phái Utraquist, Taborite và những nhóm khác khi ra trận, nhưng ngay sau khi giành chiến thắng, các phe phái lại quay sang tấn công nhau vì bất đồng giáo lý. Để duy trì trật tự, Žižka đã gửi thư cho vua Władysław II của Ba Lan, mời ông lên nắm quyền cai trị Bohemia, nhưng ông từ chối. Sau đó, Žižka tìm đến người anh họ Vytautas, người này đồng ý nhưng với điều kiện phe Hussite phải đầu hàng và công nhận quyền uy của Giáo hội, điều mà Žižka kiên quyết bác bỏ. Cuối cùng, hoàng thân Litva là Sigismund Korybut chấp nhận lời mời mà không kèm điều kiện nào và được phe Hussite công nhận là hợp pháp, nhưng trước khi ông kịp bắt đầu bất kỳ tiến triển nào, ông đã buộc phải trở về Litva do áp lực từ Sigismund xứ Hungary.

Đội quân của Jan Žižka
Ngay sau khi hoàng thân Sigismund Korybut rời đi, phe Utraquist và phe Taborite lại quay sang tấn công lẫn nhau. Tháng 4 năm 1423, Žižka dẫn quân Taborite đánh bại Utraquist, dẫn đến một thỏa thuận đình chiến tạm thời, nhưng điều này không kéo dài lâu, và nỗ lực xâm lược Moravia của họ vào cuối năm đó đã thất bại hoàn toàn do thiếu đoàn kết. Žižka qua đời vào tháng 10 năm 1424 vì bệnh dịch hạch, ông vẫn bất bại cho đến khi qua đời, ông được kế vị bởi Prokop Táo bạo, người cùng với Sigismund Korybut tiếp tục đem lại những chiến thắng cho phe Hussite đến tận năm 1426.
Trận Lipany
Giáo hoàng kêu gọi một cuộc thập tự chinh lần thứ ba chống lại phe Hussite, nhưng không vương quốc láng giềng nào hứng thú với việc tham chiến, dù Prokop Táo bạo đã khởi xướng chính sách "Những cuộc viễn chinh huy hoàng" - là các cuộc tập kích vào những vương quốc từng ủng hộ các cuộc thập tự chinh trước đó - đã cướp phá nhiều vùng thuộc Hungary, Meissen, Saxony và các nơi khác. Cũng giống như thời Žižka, phe Hussite khi đối diện với kẻ thù chung thì chiến đấu rất đoàn kết và hiệu quả, nhưng lại không thể duy trì sự thống nhất này sau khi giành chiến thắng.
Sự căng thẳng nội bộ cuối cùng đã dẫn đến trận Lipany vào ngày 30 tháng 5 năm 1434, khi phe Utraquist liên minh với lực lượng trung thành Công giáo chống lại phe Taborite. Phe Taborite do Prokop Táo bạo chỉ huy, cùng tướng Jan Čapek xứ Sány dẫn đầu kỵ binh. Prokop tiếp tục sử dụng chiến lược “thành lũy xe”, nhưng lần này ông phải đối mặt với kẻ thù từng chiến đấu dưới trướng mình và am hiểu rõ chiến thuật của ông.

Trận Lipany (Luděk Marold)
Đợt tấn công mở màn từ các "thành lũy xe kéo" của Prokop dường như đã buộc quân đối phương phải rút lui, và ông cho mở trận địa để binh sĩ truy kích. Tuy nhiên, cuộc rút lui này chỉ là một đòn nghi binh, lực lượng Utraquist lập tức quay lại phản công, đồng thời kỵ binh của họ, vốn được giấu kín cho đến lúc đó, tràn ra chiến trường. Prokop tử trân và quân của ông bị tàn sát. Những người sống sót sau đó bị thiêu sống vì tội dị giáo.
Phần kết
Trận Lipany đã đặt dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh Hussite, và hai năm sau, một hiệp ước hòa bình chính thức được ký kết tại Hội đồng Basel. Lập trường của phe Hussite lúc này chịu ảnh hưởng từ linh mục, nhà tư tưởng và nhà văn theo chủ nghĩa hòa bình Petr Chelčický (sn. 1390 - m. 1460), người đã lên án bạo lực là đi ngược lại tinh thần Cơ đốc giáo. Quan điểm của Chelčický trở thành nền tảng tư tưởng của phong trào Unity of the Brethren, lực lượng sẽ tiếp tục kêu gọi cải cách bằng con đường hòa bình.
Sau khi hàng triệu người thiệt mạng và đất nước bị tàn phá trong giai đoạn 1420-1436, "Bốn điều khoản của Prague" đã được Giáo hội Công giáo chấp nhận ở dạng sửa đổi tại Hội đồng Basel. Phe Utraquist được trao quyền tự do tôn giáo mà họ đã chiến đấu để giành được, vì họ được coi là đã "chuộc tội" nhờ việc phản bội phe Taborite tại trận Lipany.
Mặc dù sau này họ vẫn có những bất đồng với Giáo hội, phe Utraquist dần mô phỏng cơ cấu phẩm trật của Giáo hội và thậm chí tìm kiếm sự chấp thuận của Giáo hoàng cho việc phong chức giáo sĩ. Theo thời gian, Utraquist trở thành lực lượng tôn giáo có quyền lực ở Bohemia và đàn áp những người bất đồng, giống như cách mà Giáo hội Công giáo La Mã từng đàn áp họ trước đây.

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

