Chiến tranh Bảy năm - Cuộc chiến tranh thế giới đầu tiên (Phần 1)
Chiến tranh Bảy năm, (1756–1763), cuộc xung đột lớn cuối cùng trước Cách mạng Pháp có sự tham gia của tất cả các cường quốc ở Châu...
Chiến tranh Bảy năm, (1756–1763), cuộc xung đột lớn cuối cùng trước Cách mạng Pháp có sự tham gia của tất cả các cường quốc ở Châu Âu. Pháp, Áo, Sachsen, Thụy Điển và Nga liên minh để chống lại Phổ, Hanover và Anh. Chiến tranh nảy sinh từ nỗ lực của nhà Habsburgs Áo nhằm giành lại tỉnh Silesia giàu có, nơi đã bị Frederick II (Đại đế) của Phổ chiếm lấy trong Chiến tranh Kế vị Áo (1740–1748). Nhưng Chiến tranh Bảy năm cũng liên quan đến các cuộc đấu tranh thuộc địa ở nước ngoài giữa Anh và Pháp, tranh chấp chính giữa hai đối thủ truyền kiếp này là cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát Bắc Mỹ (Chiến tranh Pháp và người Da Đỏ 1754–1763) và Ấn Độ. Với nhận định đó, Chiến tranh Bảy năm cũng có thể được coi là giai đoạn của cuộc chiến tranh toàn cầu kéo dài 9 năm giữa Pháp và Anh. Liên minh của Anh với Phổ được thực hiện một phần nhằm bảo vệ Hanover (thuộc địa của triều đại cầm quyền ở Anh) khỏi mối đe dọa bị Pháp chiếm đóng.
I. Cuộc cách mạng ngoại giao và màn dạo đầu cho Chiến tranh Pháp và người Da Đỏ
Hiệp ước Aix-la-Chapelle (1748) kết thúc Chiến tranh Kế vị Áo, đã để lại nhiều cơ sở cho sự bất mãn giữa các cường quốc. Hiệp ước này không có tác dụng để xoa dịu sự cạnh tranh thuộc địa giữa Anh và Pháp, và nó gần như đảm bảo một cuộc xung đột tiếp theo giữa Áo và Phổ bằng cách chấp nhận cuộc chinh phục Silesia của Frederick Đại đế. Việc mở rộng quyền lực của Phổ được Nga coi là một thách thức đối với các kế hoạch của mình với Ba Lan và vùng Baltic, nhưng Nga không có tiếng nói trong các cuộc đàm phán. Theo Hiệp ước St. Petersburg ngày 9 tháng 12 năm 1747, Nga đã cung cấp lính đánh thuê cho người Anh để sử dụng chống lại người Pháp trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, và để trả đũa, người Pháp đã phủ quyết bất kỳ đại diện nào của Nga trong hội nghị hòa bình.
Chiến tranh Kế vị Áo đã chứng kiến những kẻ tham chiến liên minh với nhau trên cơ sở lâu đời. Những kẻ thù truyền kiếp của Pháp như Anh và Áo, đã liên minh lại. Phổ, quốc gia chống Áo hàng đầu ở Đức, đã được Pháp hỗ trợ. Tuy nhiên, cả hai phe đều không tìm thấy nhiều lý do để hài lòng với mối quan hệ hợp tác của mình: Các khoản trợ cấp của Anh dành cho Áo không giúp ích gì nhiều cho người Anh, trong khi nỗ lực quân sự của Anh đã không giữ được Silesia cho Áo. Phổ, sau khi giành được Silesia, đã thỏa thuận với Áo mà không quan tâm đến lợi ích của Pháp. Mặc dù vậy, Pháp đã ký kết liên minh phòng thủ với Phổ vào năm 1747, và việc duy trì liên minh Anh-Áo sau năm 1748 được Thomas Pelham-Holles (công tước Newcastle) coi là cần thiết. Sự sụp đổ của hệ thống đó và sự liên kết của Pháp với Áo và của Anh với Phổ đã tạo nên cái được gọi là “cuộc cách mạng ngoại giao” (diplomatic revolution) hay “sự đảo ngược của các liên minh” (reversal of alliances).
1. Lợi ích của các cường quốc châu Âu
Vua George II của Vương quốc Anh đã nhiệt tình cống hiến cho việc nắm giữ lục địa của gia đình mình, nhưng các cam kết của ông ở Đức đã bị đối trọng bởi yêu cầu của các thuộc địa của Anh ở nước ngoài. Nếu chiến tranh chống lại Pháp để mở rộng thuộc địa được tiếp tục thì Hanover phải được đảm bảo an toàn trước cuộc tấn công của Pháp-Phổ. Pháp rất quan tâm đến việc mở rộng thuộc địa và sẵn sàng khai thác điểm yếu của Hanover trong cuộc chiến chống lại Anh, nhưng Pháp không muốn chuyển lực lượng sang Trung Âu vì lợi ích của Phổ. Hơn nữa, chính sách của Pháp còn phức tạp do sự tồn tại của le Secret du roi—một hệ thống ngoại giao tư nhân do Vua Louis XV thực hiện. Bộ trưởng ngoại giao của ông không hề hay biết, Louis đã thành lập một mạng lưới điệp viên khắp châu Âu với mục tiêu theo đuổi các mục tiêu chính trị cá nhân mà thường mâu thuẫn với các chính sách được công bố công khai của Pháp. Các mục tiêu của Louis đối với le Secret du roi bao gồm nỗ lực giành vương miện Ba Lan cho người họ hàng là Louis François de Bourbon (hoàng tử de Conti) và duy trì Ba Lan, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ với tư cách là các quốc gia phụ thuộc Pháp đối lập với lợi ích của Nga và Áo.
Vào ngày 2 tháng 6 năm 1746, Áo và Nga ký kết một liên minh phòng thủ bao gồm lãnh thổ của họ và Ba Lan trước cuộc tấn công của Phổ hoặc Thổ Nhĩ Kỳ. Họ cũng đồng ý với một điều khoản bí mật hứa sẽ khôi phục Silesia và bá quốc Glatz (nay là Kłodzko, Ba Lan) cho Áo trong trường hợp có xung đột với Phổ. Tuy nhiên, mong muốn thực sự của họ là tiêu diệt hoàn toàn quyền lực của Frederick, giảm bớt ảnh hưởng của ông đối với Brandenburg và trao Đông Phổ cho Ba Lan, một cuộc trao đổi đi kèm với việc nhượng lại công quốc Courland của Ba Lan cho Nga. Aleksey Petrovich, đại thủ tướng Nga dưới thời nữ hoàng Elizabeth, có thái độ thù địch với cả Pháp và Phổ, nhưng ông không thể thuyết phục chính khách Áo Wenzel Anton von Kaunitz cam kết thực hiện các kế hoạch tấn công chống lại Phổ nếu như Phổ có thể dựa vào sự hỗ trợ của Pháp.
Frederick Đại đế coi Sachsen và Tây Phổ thuộc Ba Lan là những mỏ tiềm năng để bành trướng nhưng không thể mong đợi sự hỗ trợ của Pháp nếu ông bắt đầu một cuộc chiến tranh xâm lược vì họ. Nếu ông tham gia cùng người Pháp chống lại người Anh với hy vọng sát nhập Hanover, ông có thể trở thành nạn nhân của một cuộc tấn công Áo-Nga. Tuyển hầu tước Sachsen là Frederick Augustus II, cũng là vị vua được bầu chọn của Ba Lan với tên gọi Augustus III, nhưng hai vùng lãnh thổ này bị chia cắt bởi Brandenburg và Silesia. Không quốc gia nào có thể trở thành một cường quốc. Sachsen chỉ đơn thuần là vùng đệm giữa Phổ và Bohemia thuộc Áo, trong khi Ba Lan, mặc dù liên minh với vùng đất cổ Lithuania, lại là con mồi của các phe phái thân Pháp và thân Nga.
2. Các cuộc đàm phán sơ bộ và cuộc chiến ở các thuộc địa
Để làm hài lòng Áo, chính phủ Anh đề nghị người Hanover ủng hộ việc bầu chọn con trai của Maria Theresa (nữ hoàng Áo) là Joseph làm hoàng đế La Mã Thần thánh tiếp theo. Đề xuất đó vấp phải sự phản đối của Frederick Đại đế (tuyển hầu xứ Brandenburg và vua nước Phổ), người mà các đại cử tri Đức khác không dám chống đối. Năm 1750, Vương quốc Anh gia nhập liên minh phòng thủ Áo-Nga 1746, nhưng không ký điều khoản bí mật về Silesia và không nhận được sự đảm bảo từ hai đế quốc về sự nguyên vẹn ở Hanover.
Năm 1750 Wenzel Anton von Kaunitz đến Pháp để thúc giục Pháp tham gia vào kế hoạch Áo-Nga chống lại Phổ. Tuy nhiên, Pháp không sẵn sàng nối lại quan hệ ngoại giao với Nga (cắt đứt vào năm 1748) cũng như không sẵn sàng thông đồng trong việc tiêu diệt Phổ, một diễn biến có thể sẽ khôi phục Áo trở lại quyền bá chủ không thể tranh cãi ở Đức. Đến năm 1753, khi Maria Theresa triệu ông về Vienna để làm thủ tướng, Kaunitz chỉ đạt được sự thiện chí không rõ ràng giữa Pháp-Áo.
Trong khi đó, Hiệp ước Aix-la-Chapelle đã không làm gì để giảm bớt căng thẳng giữa các công ty Đông Ấn của Pháp và Anh, và ở Bắc Mỹ, mối quan hệ giữa những người thực dân đã xấu đi dần dần kể từ năm 1752. Đến năm 1754, sự xâm lược của Pháp ở Bắc Mỹ đã đạt đến một mức độ nhất định mà người Anh không thể bỏ qua được nữa. Chính sách của London, vốn là “để người Mỹ đánh với người Mỹ”, đã dẫn đến một loạt chiến thắng quân sự của Pháp. Đô đốc Anh Edward Boscawen tấn công các tàu Pháp ở eo biển Belle Isle vào tháng 6 năm 1755, bắt đầu một cuộc chiến hải quân không được công bố giữa hai nước. Trước khi chính phủ Anh có thể tuyên bố tấn công công khai chống lại Pháp, họ phải bảo vệ Hanover. Ưu thế vượt trội của hải quân Anh sau đó có thể được phát huy trong khi lực lượng trên bộ vượt trội của Pháp ở châu Âu bị một số đồng minh trên lục địa của Anh kiểm soát.
3. Liên minh phòng thủ
Vì chủ yếu quan tâm đến Silesia, Áo miễn cưỡng dính líu đến cuộc tranh cãi Anh-Pháp. Kaunitz tin rằng Vương quốc Anh nên thuê lính đánh thuê người Đức và Nga để bảo vệ cả Hanover và miền nam Hà Lan; sau này đã đóng vai trò là điểm phát động cho các hoạt động trước đây của Áo-Anh và Hà Lan chống lại Pháp. Sự suy giảm lực lượng quân sự của người Hà Lan đã làm tổn hại đến khả năng phòng thủ của Hà Lan thuộc Áo (bây giờ là Bỉ), và Kaunitz trên thực tế sẵn sàng xem xét việc nhượng lại lãnh thổ cho người Pháp để đổi lấy sự giúp đỡ về Silesia. Cuối cùng, lực lượng mà Kaunitz sẵn sàng sử dụng để chống lại Pháp và để bảo vệ Hanover hoặc Hà Lan ít hơn nhiều so với những gì người Anh yêu cầu ở ông.
Bị Áo từ chối, người Anh tìm kiếm một hiệp ước mới với Nga, và vào ngày 30 tháng 9 năm 1755, một thỏa thuận sơ bộ đã được ký kết tại St. Petersburg giữa nhà ngoại giao Nga, Alexey Bestuzhev-Ryumin và đại sứ Anh, Charles Hanbury Williams. Thỏa thuận quy định rằng Nga phải duy trì 55.000 quân ở biên giới Livonia-Litva để họ có thể được điều động kịp thời đến bảo vệ lợi ích của Anh trên Lục địa nếu cần thiết. Đổi lại, Nga sẽ nhận được khoản trợ cấp hàng năm trị giá 100.000 bảng Anh, số tiền này sẽ tăng lên 500.000 bảng Anh trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công. Bestuzhev cho rằng hiệp ước này nhằm vào Phổ, ông rất vui mừng khi có tiền của Anh để chi cho các dự án của riêng mình. Đồng thời, Nga không hề hay biết, người Anh đã liên lạc với Frederick Đại đế. Sợ ý định của Áo-Nga và cảnh giác trước các cuộc đàm phán Anh-Nga, Frederick đồng ý các đề nghị của Anh, mặc dù nó khó có thể làm hài lòng đồng minh Pháp của ông. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1756, Công ước Westminster được ký kết, theo đó Anh-Hanover và Phổ đồng ý tôn trọng lãnh thổ của nhau ở châu Âu và cam kết cùng nhau chống lại bất kỳ cuộc xâm lược nào vào “Đức” của một thế lực nước ngoài.
Công ước Westminster gây mất tinh thần cho Bestuzhev và nữ hoàng Elizabeth, người vẫn chưa phê chuẩn hiệp ước của Anh. Elizabeth nhất quyết thông báo cho người Anh rằng kẻ thù chung được dự tính trong hiệp ước chỉ có thể là Phổ, và khi người Anh bác bỏ cách giải thích đó, toàn bộ thỏa thuận Nga-Anh chẳng có kết quả gì. Chính phủ Pháp cũng tức giận không kém trước sự dối trá của đồng minh duy nhất của mình là Phổ. Người Pháp, với hy vọng làm tan băng mối quan hệ với Nga và có thêm thông tin về các cuộc đàm phán Anh-Nga, Pháp đã gửi một người tị nạn Jacobite người Scotland là Alexander Mackenzie đi làm nhiệm vụ bí mật tới St. Petersburg vào mùa thu năm 1755. Mackenzie đang phục vụ le Secret du roi cũng như Bộ ngoại giao Pháp, nhưng các đại diện chính của le Secret ở Ba Lan đã không hề hay biết về nhiệm vụ của ông, vì sợ họ coi việc đề nghị với Nga là phản bội đường lối chống Nga mà họ đã cống hiến. Mikhail Illarionovich Vorontsov, phó thủ tướng Nga và là kẻ thù của Bestuzhev, đã tiếp đón Mackenzie rất ưu ái, và sự phẫn nộ của Elizabeth tại Hội nghị Westminster đã góp phần đẩy nhanh quá trình xích lại gần nhau giữa Pháp-Nga. Vào tháng 4 năm 1756, người Nga cam kết gửi 80.000 quân tới Áo để tấn công Phổ.
Đối với Kaunitz, Hội nghị Westminster đã đưa ra những lý do rõ ràng để tự chúc mừng. Nó biện minh cho quan điểm của ông rằng liên minh với Anh không còn giá trị nữa, và nó buộc Pháp phải xích lại gần Áo hơn vì sợ bị cô lập khi Phổ bỏ liên minh. Các cuộc đàm phán Pháp-Áo được nối lại vào mùa hè năm 1755 bởi đại sứ Áo Georg Adam, Graf von Starhemberg và chính khách Pháp François-Joachim đã đi đến bế tắc vào tháng 12. Tuy nhiên, thông báo về Công ước Westminster đã mang lại cho họ động lực mới và vào ngày 1 tháng 5 năm 1756, Hiệp ước Versailles đầu tiên đã được ký kết. Hiệp ước đó là một liên minh phòng thủ giữa Pháp và Áo, trong đó một trong hai bên cam kết cử 24.000 người đến hỗ trợ bên kia trong trường hợp bị tấn công. Đáng chú ý, nó miễn cho Áo mọi nghĩa vụ tham gia cuộc chiến chống lại Vương quốc Anh.
Công ước Westminster và Hiệp ước Versailles thứ nhất thường được coi là những yếu tố cấu thành của cuộc cách mạng ngoại giao, nhưng chúng không khiến chiến tranh ở châu Âu trở thành điều không thể tránh khỏi. Cả hai đều mang tính phòng thủ rõ ràng, nhưng chúng có thể phản tác dụng, mặc dù Kaunitz ít nhất có thể coi thỏa thuận Áo-Pháp là một bước nhằm lôi kéo Pháp tham gia liên minh tấn công Áo-Nga chống lại Phổ. Cuộc chinh phục Minorca của Pháp, đạt được trong một chiến dịch kéo dài một tháng từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 20 tháng 5 năm 1756 đã không buộc Phổ phải tham chiến với phía Anh và tất nhiên Áo không phải là mối lo ngại.
Frederick Đại đế đã cố gắng trình bày Công ước Westminster một cách vô ích để không mâu thuẫn với liên minh Pháp của ông. Theo đó, ông phải tuyên bố coi Hiệp ước Versailles thứ nhất là vô hại đối với Phổ, nhưng hiệp ước đó rõ ràng có lợi cho Áo và cho Nga. Trên thực tế, cả Áo và Nga hiện đang tập trung quân ở biên giới gần Phổ nhất. Trong suốt tháng 7 và cho đến tận ngày 20 tháng 8 năm 1756, Frederick đã kêu gọi Maria Theresa đảm bảo rằng bà có ý định tốt đối với ông, nhưng ông không nhận được câu trả lời thỏa đáng. Ngày 29 tháng 8 năm 1756, Frederick dẫn quân vào Sachsen, trên đường tới biên giới Bohemian của Áo. Động cơ cho quyết định của Frederick, bắt đầu cuộc chiến tranh châu Âu, đã được tranh luận nhiều. Phải chăng ông sợ hãi lao vào một cuộc chiến tranh phòng ngừa, chỉ có ý định giành lấy lợi thế quân sự nào có thể trước sự xâm lược sắp xảy ra của Áo và Nga, hay ông nghĩ rằng đã đến lúc xảy ra một cuộc chiến tranh thôn tính khác? Tuy nhiên, người Anh rất khó chịu trước viễn cảnh phải hỗ trợ Frederick nếu chiến tranh của ông thất bại, người Pháp lại rất kinh ngạc trước hành động của ông. Trong khi Pháp đã ký hiệp ước với Áo với niềm tin rằng họ sẽ được tự do tham gia vào cuộc chiến quan trọng chống lại người Anh và sau này họ có thể lựa chọn có tiếp tay cho một cuộc tấn công của Áo chống lại Phổ hay không.
Tài liệu tham khảo:
Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất