Xưa có Đế thống thiên hạ, năm châu quy phục, trăm họ an cư. Nay Đế băng, long ấn thất truyền, anh hùng nổi dậy, thiên hạ phân tranh.
Thuở xưa, nơi đất trời giao hòa, có một đại đế quốc mang tên Thiên Vận. Dưới bóng Ngai Rồng thiêng liêng, năm châu – Đông Lâm, Tây Dã, Nam Hải, Bắc Tuyết và Trung Thiên – cùng quy phục, sống trong thịnh trị suốt bốn trăm năm.
Nhưng vận nước vốn vô thường. Đời Đế cuối cùng – Thương Dực Đế – say mê phù thủy, bỏ mặc triều chính, khiến lòng người ly tán. Quan thần chia bè, tướng soái mưu đồ, phản loạn nổi lên như lửa khô gặp gió dữ. Một đêm giông bão, Hoàng thành Trung Thiên bốc cháy ngút trời, Đế thất tung, long ấn biến mất, Ngai Rồng trống không.
Từ ấy, Ngũ châu chia cắt, thiên hạ đại loạn.
Tại Đông Lâm, hậu nhân danh tướng xưa là Lữ Quang dựng cờ nghĩa, xưng hiệu Chấn Uy Hầu, lập căn cứ tại thành Kim Sương, mưu thống nhất Đông Châu.
Ở Tây Dã, một gia tộc thương nhân là Gia tộc Bạch Tư thao túng quân phiệt, lập nên nước Tư Kỵ, giao tranh liên miên với các bộ tộc hoang mạc.
Nam Hải, nơi giàu thuyền bè, ngọc quý, chứng kiến sự trỗi dậy của hải vương Lạc Yên Nữ Vương, người tự xưng Hậu nhân Thiên Hạ Đế, thề vượt sóng khơi, thu phục các châu
Bắc Tuyết, vùng hàn địa đầy băng giá, tưởng chừng tách biệt, lại ẩn giấu thế lực hắc ám – Tộc Huyết Tinh. Thủ lĩnh là Tử Dực Vương, một kẻ bất tử, điều khiển ma binh, tham vọng đưa thế giới về thời vĩnh dạ.
Chỉ còn Trung Thiên, cố đô xưa, nay hoang tàn đổ nát, thành đất không vua, là nơi các thế lực đều hướng đến. Tương truyền, ai tìm lại được long ấn thất lạc và ngồi lên Ngai Rồng Thiên Hạ, kẻ đó sẽ được trời ban mệnh, trở thành Tân Đế.
Giữa thời loạn, anh hùng hào kiệt như nấm mọc sau mưa. Người thì lấy trung nghĩa dựng cờ, kẻ thì nương phản loạn mưu toan. Có kẻ mang kiếm vì thù nhà, có người thuyết đạo vì mộng lớn.
Và trong một thôn xóm nhỏ nằm giữa ranh giới Đông Lâm – Trung Thiên, một thiếu niên tên Vân Kha mang dòng máu bí ẩn, sống đời tiều phu, chẳng màng thế sự. Nhưng ai hay, chính hắn mới là người châm ngòi cho hồi sinh Đế chế…
Long ấn đã mất, thiên hạ vô chủ. Kẻ sĩ sinh ở loạn thời, chẳng thể làm ngơ trước giặc cướp vương quyền.
Ba năm sau ngày Hoàng thành thất thủ, Đông Lâm trở thành nơi tranh bá khốc liệt. Bảy thế lực lớn nhỏ, năm mươi lẻ tám tướng lĩnh chiếm cứ các thành trấn, cát cứ một phương, lập quân xưng bá. Dân đen oằn mình dưới binh lửa, thành quách thay nhau sụp đổ.
Tại thành Kim Sương, nằm giữa thảo nguyên và vùng trung châu màu mỡ, có một người tên Lữ Quang, vốn là cháu nội của Đại tướng Lữ Vân – danh tướng thời Đế Thịnh. Quang mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được cựu binh nuôi dạy trong doanh cũ. Mười lăm tuổi đã tinh thông trận pháp, hai mươi tuổi đánh bại giặc cướp Hoài Lộ, được nhân dân xưng tụng là Tiểu Vân Hầu.
Nhưng Lữ Quang không màng danh vọng. Gã sống giản dị, lấy rèn binh luyện sĩ làm vui, hàng năm cứu tế lương dân, nghiêm cấm binh lính cướp bóc. Thấy vậy, các lãnh chúa trong vùng ngờ vực, nhiều lần mưu sát, nhưng đều thất bại.
Một hôm, có kẻ áo đen, mặt mũi bôi tro, lén vào doanh trại Kim Sương, đặt dưới gối Lữ Quang một phong thư. Trong thư viết:
Thiên hạ có bệnh, mà các châu đều là vết thương. Đông Lâm ngó nghiêng, Tây Dã lăm le, Nam Hải dậy sóng, Bắc Tuyết động sát khí. Chỉ có Trung Thiên, xác đế chưa lạnh, mà lòng dân còn tưởng. Tướng quân nếu giữ thân phận thủ thành, sẽ bị chôn theo giấc mộng cũ. Chi bằng dựng cờ, vì dân khởi nghĩa, xưng vương trước các châu. Người viết thư này là kẻ vô danh, từng phụng sự Lữ Vân công. Gửi gắm giấc mộng thiên hạ, chỉ mong Tướng quân không phụ lòng người.
Lữ Quang đọc xong, lặng thinh một đêm, sáng hôm sau truyền đại lệnh:
Từ nay, Kim Sương đổi làm Chấn Uy doanh, chiêu hiền nạp sĩ, luyện quân sửa pháp. Ba tháng sau, lập Minh ước Kim Sương, hiệu triệu các hào kiệt Đông Lâm, dấy cờ chấn hưng Đế nghiệp!
Tin tức vang xa. Kẻ thì gọi Quang là “họa loạn mới”, người lại ca tụng là “Minh chúa chân chính”. Không đầy một tháng, hơn bốn mươi ba hào kiệt mang theo quân đội nhỏ kéo đến Kim Sương, thề sinh tử dưới cờ Chấn Uy Hầu.
Trong số ấy có:
Tả Cửu – Lão mưu sĩ từng phò ba đời châu mục, đầu bạc, mắt sáng, giỏi kế sách dời non lấp biển.
Dịch Bằng – Võ tướng cự hổ, tay cầm song phủ, sức mạnh như trâu mộng, giữ thành Ngưu Lĩnh năm năm không thất thủ.
Thiết Diệp – Thiếu nữ cung tiễn, thân pháp như gió, từng ám sát ba lãnh chúa phản bội nhân dân.
Lữ Quang truyền thệ trước ba quân:
Thiên hạ lâm nguy, dân đen lầm than, lòng người mỏi mệt. Nếu ta dấy binh chỉ vì vinh thân phì gia, xin trời tru diệt! Nếu ta có thể đánh tan cát cứ, chấn chỉnh pháp lệnh, mở đường về Trung Thiên, thì nguyện không xưng đế, chỉ giữ long ấn cho người xứng đáng!
Ba quân reo hò như sấm. Đông Lâm, vùng đất hỗn loạn nhất, nay bắt đầu có ánh sáng quy tụ.
Song... khi cờ nghĩa vừa dựng, ba đại lãnh chúa Đông Lâm – Triệu Khôi, Lữ Kha và Ngụy Hắc – lập tức liên minh, sai quân vây đánh Kim Sương. Cuộc chiến đầu tiên của Lữ Quang đang tới gần.
Loạn thế cần anh hùng, nhưng thiên hạ chỉ đổi vận khi long ấn trở về. Giữ được người, chưa chắc giữ được trời; giữ được ấn, mới đổi được số.
Đêm ấy, trời tối không trăng, gió rít qua thành Kim Sương như lời báo ứng. Lữ Quang vừa từ thao trường trở về, còn chưa kịp nghỉ, thì thị vệ hối hả bẩm báo:
Có một người áo vải, không rõ danh tính, lẻn vào thành, đứng ngoài doanh lớn, chỉ nói đúng một câu: "Ta biết nơi cất giấu long ấn."
Tả Cửu nghe xong, nhíu mày:
Long ấn là thứ ngàn đời truy tìm, biết được chốn cất giữ, tất không phải kẻ tầm thường. Nhưng cũng có thể là gian tế.
Lữ Quang chỉ nhẹ nói:
Kẻ có gan bước giữa đêm, dám xưng biết long ấn, thì dù thật hay giả, đều đáng gặp.
Người áo vải được đưa vào. Hắn cúi đầu, giọng trầm như đất vỡ đá lở:
Tại hạ là Du Thản, từng là thị thư trong Hoàng thư viện Trung Thiên, năm Đế thất thủ, là kẻ cuối cùng mang thư khố thoát ra.
Mọi ánh mắt đều chấn động. Du Thản mở gói vải bên hông, rút ra một mảnh da rồng, ghi chằng chịt cổ văn bằng máu chu sa. Tả Cửu run tay tiếp nhận, đọc nửa canh giờ mới ngẩng đầu, thì thở dốc:
Là Bí thư Lưu Ấn, mật lệnh truyền đời giữa các hoàng đế Thiên Vận.
Theo lời Du Thản, khi hoàng cung bốc cháy, Đế không chết ngay mà cùng một nhóm thị thần trốn qua mật đạo. Trước khi tắt thở do trúng độc, Đế truyền lại long ấn cho một người thân cận, phái đi ẩn giấu. Nơi đó là “Thạch Trụ U Cốc”, vùng đất nằm giữa biên giới Trung Thiên và Bắc Tuyết, nơi sương mù quanh năm không tan, người vào chín phần chết.
Du Thản là một trong ba người sống sót biết được bí mật này. Hai người kia: một là Trác Lân, cựu thống lĩnh Vệ Long quân, giờ không rõ tung tích; kẻ còn lại – Nguyệt Linh, nữ hộ vệ thân cận của Đế – được cho là đã chết trong vụ cháy.
Lữ Quang hỏi:
Vì sao ngươi đến tìm ta?
Du Thản đáp, mắt như lửa cháy:
Trong ba năm qua, ta đã đi khắp Đông Lâm, gặp bao kẻ tự xưng anh hùng, nhưng hoặc ham quyền lợi, hoặc giả nghĩa sĩ. Duy chỉ có Tướng quân, dám thề không giữ ấn cho mình. Trời sinh Tướng quân vào thời loạn, là có lý do.
Tả Cửu gặng hỏi:
Ngươi có bằng chứng không lừa dối?
Du Thản chỉ nhẹ kéo áo, để lộ một vết sẹo hình long ấn chạm lửa, nằm giữa ngực trái:
Đây là dấu ấn khi thề giữ bí mật trước Đế, nếu phản lời, sẽ chết trong bảy bước. Ta còn sống tới nay, là vì chưa từng nói dối.
Lữ Quang nhìn hắn hồi lâu, rồi nói:
Giữ bí mật ba năm là trung. Đến tìm ta lúc thành bị vây là dũng. Vượt đường xa để cứu thiên hạ là nghĩa. Du Thản, nếu lời ngươi đúng, thì hôm nay ta nguyện cùng ngươi đi đến cùng trời cuối đất để tìm long ấn.
Thản khom mình lạy một lạy sâu:
Đa tạ Tướng quân. Nhưng xin nhớ: tìm được ấn là một chuyện… giữ được ấn, lại là chuyện khác.
Ngoài trời, gió xoáy dữ dội, cờ nghĩa Chấn Uy doanh phần phật tung bay như tiếng trống trời dậy giữa đêm tối.
Dựng cờ nghĩa, tất bị nghi kỵ. Lập chí lớn, ắt gặp vây hãm. Kẻ xứng làm Đế, là kẻ có thể phá vây giữa muôn trùng gươm đao.
Từ khi Lữ Quang dựng cờ tại Kim Sương, ba đại chư hầu Đông Lâm - Triệu Khôi, Lữ Kha, Ngụy Hắc – vốn từng tranh chấp, nay kết liên, đồng lòng muốn trừ họa trước khi mọc rễ.
Tam quân cộng lại hơn bảy vạn, vây Kim Sương bốn mặt, dàn trận trong bảy ngày, không công mà thành đã nghiêng ngả vì áp lực. Tin đồn lan khắp Đông Lâm: “Chấn Uy sắp diệt, Lữ Quang sắp chết.”
Trong thành chỉ còn chưa đầy vạn quân, lương thực vừa đủ mười ngày, binh khí vũ khí mòn mỏi, nhiều tướng sĩ dao động. Tả Cửu bình thản bảo:
Muốn sống thì đánh, đầu hàng tất chết. Nhưng đánh phải đánh bằng mưu, không phải sức.
Đêm ấy, ba người họp trong doanh: Lữ Quang, Tả Cửu, Du Thản.
Tả Cửu vạch kế:
Ngụy Hắc tham công, đóng trại phía tây, gần đồi Thạch Linh, nhưng địa hình rậm rạp, dễ tập kích.
Lữ Kha vốn họ hàng xa với Lữ Quang, có phần do dự, có thể lung lạc.
Triệu Khôi là người trọng thực lực, nhưng dễ kiêu khi thắng thế.
Tả Cửu đề nghị “Dụ rắn rời hang – liên hoàn phản trận”:
Giả vờ đàm phán với Lữ Kha, để lộ “tin giả” rằng nội thành sắp binh biến, mở cửa đầu hàng.
Ngụy Hắc nghe tin, tất xông lên trước để tranh công.
Trong khi đó, Lữ Quang cùng Dịch Bằng dẫn tinh kỵ hai ngàn, vòng đồi Thạch Linh, tập kích doanh trại phía sau của Ngụy Hắc.
Đúng giờ giao hẹn, Thiết Diệp bắn pháo lệnh từ nội thành, khiến hai cánh quân Kha – Khôi nhầm tưởng Hắc đã bị mua chuộc, sinh nghi lẫn nhau.
Lữ Quang gật đầu:
Nếu kế này thành, không chỉ phá vây mà còn lập uy thiên hạ.
anh ba đêm thứ tám, pháo hiệu vang lên. Ngụy Hắc dẫn ba ngàn quân đánh cổng Tây, vừa đến chân thành thì rơi vào bẫy chông - hỏa trận, lửa cháy bốn bề, tên bắn như mưa. Cùng lúc, Dịch Bằng từ phía sau đồi thọc vào, đốt sạch lương trại, chém chết phó tướng Hắc.
Ngụy Hắc trọng thương bỏ chạy, gặp quân Triệu Khôi lại bị chặn lầm, mất cả đường lui.
Lữ Kha nhận tin “Lữ Quang bị nội biến” là giả, lại thấy quân Khôi – Hắc hỗn loạn, sinh nghi bị gài bẫy, lập tức rút lui về giữ thành Chân Định, cắt đứt liên minh.
Triệu Khôi giận dữ, dồn quân đánh đêm, nhưng Lữ Quang chủ động mở cổng nghênh chiến, dùng thế “hổ nhập hồ”, vờ thua lùi về khe cạn, dẫn Khôi vào đường tử trận – hai bên núi bị Dịch Bằng đẩy đá, quân Khôi chết như rạ, chính Khôi cũng bị Thiết Diệp bắn trúng mắt, ngã ngựa giữa chiến địa.
Rạng sáng ngày thứ chín, cờ Chấn Uy cắm dọc bốn cửa thành, ba đại chư hầu tan tác thảm bại, uy danh Lữ Quang chấn động toàn Đông Lâm.
Tả Cửu lặng nhìn xác quân ngoài thành, trầm giọng:
Đây mới là trận đầu. Sau này, mỗi trận đều khốc liệt hơn. Nhưng từ giờ, ai nhắc tới Kim Sương, tất biết Đông Lâm có minh chủ.
Kẻ biết bí mật mà thất thế, hoặc chết – hoặc hóa quỷ. Nhưng nếu để quỷ giữ bí mật… thiên hạ ắt không yên.
Sau trận Kim Sương, Ngụy Hắc bị trọng thương, tưởng đã vùi xác ngoài tường thành. Nhưng trong đêm loạn, một kỵ sĩ áo đen không tên đã cưỡi ngựa cứu hắn, xuyên rừng chạy về biên giới Tây Dã – vùng đất bị Đế quốc xưa phong tỏa, nơi từng có hàng vạn tội nhân bị đày, không ai sống sót trở về.
Trong cơn mê sảng, Ngụy Hắc chỉ lẩm bẩm:
Long ấn… không chỉ có một… Du Thản chỉ biết một nửa… cái còn lại… ta biết…
Ba năm trước, khi Đế băng, Ngụy Hắc là một trong bốn vị Chấp Ấn Sứ, từng canh gác Ngự Tàng Các – nơi cất giữ long ấn và bí thư triều đình. Khi các thị thần chạy loạn, hắn đã lén đánh cắp bản đồ phụ, đánh dấu ba nơi có thể là “Mật Tàng Long Ấn” – chỉ một là thật.
Du Thản giữ bản chính, Ngụy Hắc giữ bản phụ. Nhưng không ai dám chắc – đâu là “Thật Ấn”, đâu là Ấn giả – cạm bẫy của Đế để phòng phản thần.
Giờ đây, khi bị đẩy tới đường cùng, Hắc quyết:
Nếu không chiếm được thiên hạ bằng chính nghĩa… thì ta sẽ lấy nó bằng oán độc.
Tây Dã, nơi từng là nơi lưu đày tội thần và pháp sư cổ đại, nay là ổ của Hắc Mi giáo, một giáo phái nửa chính nửa tà, chuyên luyện hỏa khí, độc dược, mê trận, do một nữ thủ lĩnh thần bí cầm đầu – Ma Cơ Tinh Vân.
Ngụy Hắc đến Hắc Phong thành, quỳ gối trước Tinh Vân, dâng bản đồ phụ, nói:
Hợp tác với ta, ta cho các người thiên hạ này.
Tinh Vân cười như gió thoảng, mắt như băng tuyết:
Ta không cần thiên hạ. Ta chỉ cần thế gian hỗn loạn… để mọi người đều phải cầu xin ta sống sót.
Thế là trong bóng tối, Minh ước Tây Dã được lập:
Ngụy Hắc cung cấp toàn bộ bí mật về long ấn, các chốt giữ, tên các thị thần sống sót.
Hắc Mi giáo cho hắn binh lính, ám tử và hỏa khí, giúp hắn xây dựng lại thế lực.
Đổi lại, khi hắn nắm được quyền, Tây Dã sẽ trở thành vùng phi hoàng quyền – chỉ tuân Ma giáo pháp lệnh.
Ba tháng sau, nơi biên thùy Tây Dã xuất hiện một đội quân đeo mặt nạ xương, mặc giáp đen, cưỡi ngựa không móng – Hắc Dực kỵ, đi đến đâu, thiêu rụi đến đó.
Tin tức đưa về Kim Sương, Tả Cửu cầm thư, mặt tái đi:
Ngụy Hắc chưa chết… và hắn đang trở thành một thứ không còn là người nữa.
Lữ Quang nghe xong, chỉ nói:
Chấn Uy phải nam tiến tìm long ấn, không thể quay đầu. Nhưng nếu để Hắc chiếm được giả ấn, gieo hỗn loạn, thì thiên hạ sẽ chẳng biết thật giả. Phải có người chặn hắn.
Tả Cửu khom người:
Xin để ta dẫn một đạo binh nhẹ, đi Tây Dã, hoặc chặn bước Hắc, hoặc vĩnh biệt nơi hoang địa đó.
Người đi vào Tây Dã, hoặc mất trí, hoặc mất mạng. Nhưng có kẻ… mất cả linh hồn mà chưa từng chết.Câu khắc trên cổng gỗ mục dẫn vào thung lũng U Phong.
Lữ Quang lệnh cho Tả Cửu mang theo ba nghìn quân khinh kỵ, vượt rặng núi Bạch Ngưu, tiến vào vùng ranh giới giữa Đông Lâm và Tây Dã.
Tuy nhiên, vừa bước qua suối Đan Hồn, sương mù bốc lên ngập trời, ngựa không dám đi, người hoảng sợ. Năm đêm liền, trong trại quân vang lên tiếng sáo ai oán, lính mất ngủ, có kẻ sáng tỉnh dậy mắt đã mù, miệng lẩm bẩm:
Ta thấy người mặc váy máu… cười trên đống sọ…
Tả Cửu hiểu, đây không còn là chiến trường quân tử – mà là trận chiến linh hồn.
Ông cho dựng trụ lệnh bằng gỗ thông, xung quanh cắm chín cờ trấn tà, dùng hỏa lệnh thay kèn, cho quân thay nhau đọc binh luật mỗi canh, giữ tỉnh táo.
Đêm thứ bảy, Tả Cửu một mình cưỡi ngựa vào đồi Bách Sương, nơi tin đồn có Ma Cơ Tinh Vân ẩn thân. Trong ánh trăng tím, giữa rừng bách chết khô, có tiếng nữ nhân vọng lại:
“Ngươi là người đầu tiên đến được đây mà không phát điên.” “Ta là người tin vào lý trí hơn là sợ hãi.” “Sai rồi. Kẻ biết sợ mới sống lâu.”
Giữa gió lạnh, Ma Cơ Tinh Vân hiện hình: một nữ nhân áo choàng đen, tóc trắng, đôi mắt mang hai màu – một lam, một huyết. Sau lưng nàng là đàn bướm đen tụ lại thành mặt nạ xương, lơ lửng trên không.
Tinh Vân cười nhẹ, hỏi:
Ngươi đến đây để giết Ngụy Hắc?
Tả Cửu đáp:
Ta đến để dừng hắn. Giết hay không, do thiên ý.
Tinh Vân rót rượu từ bình hồ lô đen:
Ngươi có biết long ấn là gì không?
Tả Cửu lắc đầu.
Tinh Vân nói:
Nó không phải là một món đồ. Mà là… ý chí cuối cùng của Đế. Mỗi mảnh ấn lưu giữ một phần ký ức và sức mạnh. Người cầm nó, không chỉ có quyền – mà bị quyền lực đó nhìn thấu.
Nói đoạn, nàng thổi khói từ rượu ra không trung. Trong khói, hiện ra hình ảnh Ngụy Hắc, thân thể nửa người nửa sắt, đang đứng giữa hố lửa, điều khiển Hắc Dực kỵ – một đội quân đã chết nhưng vẫn cưỡi ngựa, mắt sáng như than.
Tinh Vân nghiêng đầu:
Hắn không còn là người. Và hắn sẽ không dừng lại cho đến khi đốt sạch mọi sự thật.
Rồi nàng rút một miếng ngọc đen:
“Đây là Thần Huyết phù, thứ duy nhất có thể trấn được sát trận của Hắc Dực. Nhưng nó chỉ có hiệu lực nếu người cầm có một tâm nguyện thuần khiết.” “Ta lấy được không?” “Ngươi không thể. Nhưng ta… sẽ trao nó, nếu ngươi thắng ta trong một canh giờ đối thoại – không rút kiếm, không nói dối.”
Tả Cửu ngồi xuống, cởi giáp, gật đầu. Hai người bắt đầu đối thoại trong màn đêm, giữa tiếng côn trùng và gió lạnh như dao. Một canh giờ trôi qua – Tả Cửu không thắng, cũng không thua.
Tinh Vân nhìn ông, thở dài:
Ngươi sẽ không cứu được thiên hạ. Nhưng có lẽ… ngươi sẽ cứu được một phần ánh sáng còn sót lại.
Nàng ném Thần Huyết phù về phía ông rồi tan vào màn sương.
Sáng hôm sau, Tả Cửu trở lại doanh trại, thấy quân mình bị bao vây giữa hàng trăm Hắc Dực kỵ, đang di chuyển không gây tiếng động, ngựa phi như trôi trên đất.
Ông rút Thần Huyết phù, giơ cao, hô to:
Binh linh bất diệt không phải vì không chết – mà vì chưa được giải thoát! Theo ta, phá trận sát hồn!
Kẻ nào chạm đến long ấn… sẽ không còn là chính mình.Cổ văn khắc dưới cột đá thứ chín của U Cốc.
Sau khi Tả Cửu đi Tây Dã, Lữ Quang không chần chừ. Ông cùng Đoàn Chấn Uy dẫn bốn vạn tinh binh, rời Kim Sương, vượt Tuyết Hạp – dãy núi tuyết quanh năm phủ trắng, nơi từng là phòng tuyến cuối cùng của Đế quốc xưa, nơi mà đến nay, gió vẫn thổi như tiếng gào thét của vạn quân bại trận.
Tuyết Hạp có ba cửa:
– Thiên Huyệt môn – cửa chính, giờ đã bị sập do lở núi.
– Địa Mi đạo – đường ngầm dưới hang, từng là lối tẩu thoát của hoàng thất.
– Vân Sách kiều – cầu dây vắt ngang hai vách núi, nguy hiểm nhất, nhưng ngắn nhất.
Lữ Quang chọn lối thứ ba.
Khi đoàn quân qua nửa cầu, bão tuyết nổi lên, cầu lung lay. Dưới chân là vực sâu ngàn trượng. Có lính sợ quá nhảy xuống. Có lính câm lặng, cắn răng đi tiếp.
Đoàn Chấn Uy quát:
Ai còn sống, bước tiếp ba bước! Ai ngã xuống, hãy nhìn lên lần cuối và nhớ: người đi sau sẽ thắng thiên mệnh vì ngươi!
Cuối cùng, họ vượt Tuyết Hạp, tiến vào U Cốc.
Thạch Trụ U Cốc, theo truyền thuyết, là nơi xưa kia chôn chín tướng trụ quốc, mỗi người mang theo một bí lệnh của Đế. Tương truyền, khi Đế lâm chung, không để lại di chiếu, chỉ để lại lời:
Người nào có thể khiến chín trụ đá khóc, ắt sẽ thấy long ấn.
Trong cốc có chín trụ đá – cao mười trượng, mỗi trụ khắc danh tướng một thời: Tiêu Trì, Mộ Dung Kha, Địch Vân, Trương Lữ, Tào Đằng, Vi Tử Minh, Doãn Linh, Thất Hàn, và... Lữ Nhung – tổ tiên của Lữ Quang.
Khi Lữ Quang chạm vào trụ cuối cùng, bỗng trời đất rung chuyển. Trong đầu ông vang lên tiếng nói:
Ngươi là huyết thống cuối cùng. Ngươi có dám nhìn sự thật?
Ông gật.
Chín trụ bắt đầu rỉ máu, đất nứt ra, để lộ một điện ngầm cổ, tên là: Đế Ký Tàng – Điện của Ký Ức Đế Vương.
Trong đó, không có long ấn. Chỉ có một ngọc giản, ghi lại bút tích cuối cùng của Đế:
Thiên hạ không cần người thừa kế. Thiên hạ cần một người dám đốt di sản mà làm lại từ đầu.
Lữ Quang lặng người.
Đoàn Chấn Uy đọc xong, nắm chặt kiếm:
Long ấn không phải là quyền lực – mà là một lời nguyền.
Nhưng lúc ấy, một bóng đen lao tới. Đó là Tam Mục, một sát thủ kỳ dị ba mắt, tay cầm Ấn giả do Ngụy Hắc đưa, hét to:
Ngươi thấy rồi! Ngươi phải chết! Bí mật này không được truyền đi!
Tam Mục sở hữu võ nghệ tà đạo, mỗi mắt mang một năng lực khác nhau:
– Mắt trái: nhìn được sát ý.
– Mắt phải: bẻ cong phản ứng người khác.
– Mắt giữa: giao cảm với quá khứ – làm người ta thấy ảo ảnh mình trong tương lai.
Trận chiến xảy ra dưới lòng đất giữa các bức tượng đá đổ vỡ, ánh sáng đỏ từ máu trụ phản chiếu lên da thịt. Tam Mục gần như đánh bại Chấn Uy – nhưng đúng lúc quyết định, mắt giữa của hắn chớp ba lần, rồi… hắn lùi lại, thốt lên:
Không… không thể nào… tương lai của ngươi…
Hắn quay đầu, tự đâm ngực, máu tràn ra, nói:
Nếu ngươi thật là người đó… thì thế giới này… chưa từng có hy vọng.
Lữ Quang nhặt lại Ấn giả, nhìn nó lấp lánh trong tay, nói với Chấn Uy:
Chúng ta không thể để ai có ấn này. Vì ai giữ nó, cũng đều phải mang nỗi điên của Đế cuối đời.
Chấn Uy hỏi:
Vậy làm gì?
Lữ Quang đáp:
Giữ lấy. Nhưng không trao cho ai. Đến ngày thiên hạ chọn một người… không vì quyền mà cầm ấn, ta sẽ giao lại.
Hai người rời U Cốc. Nhưng khi vừa ra khỏi, tin dữ tới:
Phương Nam, có một người tên Hầu Hạc, vừa tự xưng Thiên Tử, lập Đế ấn mới bằng đồng thau, có hàng ngàn người theo, chiêu hiền đãi sĩ, gọi đó là thời “Tân Đế Minh Chính”.
Khi mọi kẻ đều tự nhận mình là vua – thì không ai còn là người nữa.Tả Cửu, khi nhìn thấy mười bản sao long ấn trong tay mười kẻ điên.
Sau thất bại tại Kim Sương, Ngụy Hắc trốn về Tây Dã, ẩn trong Hắc Mộc Sơn, nơi từng là mộ địa của Đế quốc, nơi u khí dày đặc che khuất cả nhật nguyệt.
Hắn mang theo một mảnh ghi chép thiết kế long ấn gốc, do một thợ ngọc cũ lưu lại. Với tay nghề của các "Hắc thạch thủ công" – những kẻ từng rèn vũ khí ma thuật cho Đế quốc, hắn chế ra mười hai bản sao long ấn – mỗi cái mang hình thức giống hệt bản thật, chỉ khác ở... ý niệm.
Rồi hắn cho mười hai kẻ dưới trướng – mười hai “Đạo sĩ truyền ngôi”, chia nhau đi bốn phương, đến các vương quốc, thị trấn, thôn trại… tung tin:
Đế ấn đã trở lại! Người cầm ấn – là người được chọn!
Tại Bắc Mông, có thủ lĩnh bộ tộc tên Nặc Tả Hãn, được “đạo sĩ” dâng ấn, liền tập hợp tộc nhân, dựng cờ:
Ta là Hãn Đế, người kế thừa của Trời Băng!
Tại Đông Đình, một phu xe tên Khương Văn Trực nhận được ấn khi cứu một “đạo sĩ” khỏi đám cướp. Đêm đó hắn mộng thấy mình ngồi trên ngai vàng. Sáng hôm sau, hắn tụ họp dân nghèo, lập “Dân Đế hội”, tuyên bố:
Đế phải sinh từ dân – chứ không phải từ máu!
Tại Nam Cảnh, một mỹ nhân tên Lan Duyên, trước là kỹ nữ, sau được truyền ấn, tự lập thành “Nữ Hoàng Tân Thiên”, dùng sắc đẹp và mê thuật, chiêu mộ hàng nghìn tín đồ mù quáng.
Chưa đầy ba tháng, trong thiên hạ xuất hiện chín kẻ xưng Đế, hai kẻ xưng Thánh, ba kẻ xưng Trời, và hàng trăm “tín sứ mang ấn”.
Trong đó có câu nói lan truyền khắp quán trà, chợ chồm hổm, tửu điếm, quân doanh:
Không cần dòng dõi, chỉ cần có ấn – là có thể thay thiên tử.
Loạn.
Người dân không tin vua, chỉ tin người cầm ấn.
Chư hầu không nghe thiên tử, chỉ tìm nơi nào có “ấn thật”.
Lữ Quang biết được, tức tốc họp Đoàn Chấn Uy, Tả Cửu và Bàng Đạo Tử, bàn kế sách.
Tả Cửu nói:
Đây là kế độc. Hắn không cần thắng – chỉ cần làm tất cả cùng điên loạn.
Bàng Đạo Tử (quân sư mới, tinh thông cổ học) nói:
Ta từng xem qua thiên thư ‘Ngọc Ấn lục biến’ – ghi rõ: long ấn không có bản sao. Nhưng ấn giả nếu được tin tưởng bởi đủ người – sẽ có hiệu lực y như thật. Đây gọi là ‘Tín ấn pháp’ – pháp thuật nguy hiểm nhất: khiến niềm tin hóa thành hiện thực.
Lữ Quang đập bàn:
Vậy nếu có mười nghìn kẻ tin vào ấn giả – thì ấn giả chính là thiên mệnh?
Đạo Tử gật đầu:
Chưa cần thật. Chỉ cần người tin là thật.
Lữ Quang ra lệnh:
– Tả Cửu dẫn một cánh quân đi truy bắt “đạo sĩ truyền ngôi”.
– Đoàn Chấn Uy đi đến Bắc Mông – nơi ấn giả đang tạo phản ứng dữ dội nhất.
– Bản thân ông sẽ bí mật đi phương Nam, gặp người xưng Đế mới – Hầu Hạc.
Trong bóng tối, Ngụy Hắc ngồi giữa vòng tròn ánh lửa, mười một bản sao ấn giả được đặt lên bệ đá, hắn lẩm bẩm:
Hãy để thiên hạ tranh nhau giả mạo, để kẻ giữ ấn thật phải nghi ngờ chính mình. Khi không ai còn tin điều gì là thật… thì kẻ nói dối giỏi nhất sẽ làm Đế.
Ngựa phi trong tuyết, không biết là máu người hay máu ngựa. Người phản ta năm xưa, nay đứng trên thành, còn ta... lại phải gọi hắn là Vương?Đoàn Chấn Uy
Bắc Mông – nơi gió hoang thổi suốt ba mùa, mùa thứ tư là mùa máu.
Nơi đây, tộc Đa La – Chiến tộc của phương Bắc, dưới tay Nặc Tả Hãn, đã lập nên “Mông Đế quốc”, dựng lại cung điện bằng gỗ tùng đỏ, cắm cờ đen thêu ấn giả giữa thảo nguyên mênh mông.
Đoàn Chấn Uy đem theo chín ngàn kỵ binh, vượt qua đồi Thiết Cát, tiến đến thành Bạch Nhai, nơi Nặc Tả Hãn đang đóng đô.
Y định dùng kế "hiện giả, dẫn thật" – tung tin mang theo long ấn thật, để dụ Hãn Đế ra khỏi thành.
Nhưng không ngờ, người đầu tiên ra nghênh chiến lại là... Trình Vọng – xưa từng là thống lĩnh tiền quân của Lữ Quang, sau phản trong trận Đông Lâm thất thủ, từng bị cho là đã chết.
Trình Vọng cưỡi ngựa đen, mặc áo giáp bạc, mắt lạnh như sắt, đứng trên tường thành nói vọng xuống:
Chấn Uy, năm xưa ta phản, không vì sợ – mà vì biết đi theo Lữ Quang, chỉ có một con đường: chết vì thứ không tồn tại.
Chấn Uy siết tay, nhìn người bạn cũ:
Ngươi phản huynh trưởng, phản cả đạo nghĩa! Nay lại theo ấn giả, lập Đế hư danh, mặt dày nào mà xưng Vọng?
Trình Vọng cười:
Ngươi tin vào Lữ Quang, tin vào long ấn, tin vào thiên mệnh… Còn ta, ta chỉ tin vào kẻ mạnh.
Trận chiến Bạch Nhai nổ ra.
Trình Vọng chỉ huy quân phòng ngự, dùng thế “Liên thành loan trụ” – ba lớp thành giả, một lớp thành thật, dụ kỵ binh của Chấn Uy vào thế bao vây nghịch đảo.
Đoàn Chấn Uy biết mình đã lọt vào bẫy, nhưng không lui, mà chia quân làm hai nhánh:
– Một nhánh đột phá tây môn.
– Một nhánh – do chính y dẫn – đâm thẳng vào cửa trung, nơi Trình Vọng đóng trụ.
Khi hai người gặp nhau giữa loạn trận, kiếm va vào kiếm, mắt chạm vào mắt – như hai linh hồn từng đồng hành, giờ hóa thành đao phủ của nhau.
Trình Vọng nói:
Nếu ngươi thắng – ta sẽ giao ấn giả. Nhưng nếu ta thắng – hãy cúi đầu thừa nhận: thiên hạ không cần trung thần.
Chấn Uy nói:
Ngươi nhầm rồi. Nếu ta chết – là để chứng minh: trung thần không cần thiên hạ.
Trận tử chiến kéo dài ba canh giờ.
Cuối cùng, Đoàn Chấn Uy bị Trình Vọng đâm xuyên sườn, máu thấm áo giáp.
Nhưng ngay khi ngã xuống, y kéo theo Trình Vọng, lật ngựa hắn xuống hào lửa. Cả hai rơi vào dòng tro nóng, thân thể cháy xém.
Người ngựa tới cứu, chỉ kịp kéo lên một thân xác đã cháy nửa người, nhưng còn sống – là Trình Vọng.
Còn Chấn Uy – chết không toàn thây, chỉ còn thanh kiếm gãy vỡ, cắm sâu trong hào.
Ba ngày sau, tin Đoàn Chấn Uy tử trận được truyền khắp ngũ châu.
Lữ Quang, nghe tin, chỉ ngồi lặng bên lư hương, nói:
Người ấy chết, không vì ta. Mà vì một điều chưa từng tồn tại – nhưng ta sẽ biến nó thành thật.
Còn Trình Vọng, nửa mặt cháy, nhưng vẫn sống, vẫn làm tướng cho Bắc Mông. Từ đó, người ta gọi hắn là:
Bán Diện Vọng Vương” – kẻ nửa người, nửa tội, mang bóng hình của cả phản thần lẫn trung nhân.
Thế gian không cần vua – chỉ cần người có thể khiến thiên hạ tin mình là vua.Lời khai của đạo sĩ truyền ngôi
Tả Cửu rời thành Đông Lâm khi trăng lặn, mang theo sáu người – tất cả đều là ám ảnh thủ từng kinh qua trận chiến hoàng cung cũ. Họ lặng lẽ bám theo dấu vết một đạo sĩ áo xanh – kẻ vừa rời khỏi trấn Thập Tự, nơi có một phu xe vừa xưng Đế sau khi nhận được “ấn từ trời”.
Sau mười ba ngày đêm bám theo vết máu, Tả Cửu bắt được hắn ở ngã ba Mộc Khê, nơi núi rừng u tối, dòng sông đỏ như rượu cũ.
Gã đạo sĩ, khi bị trói, không sợ, thậm chí còn mỉm cười:
Ngươi bắt ta? Tốt thôi. Nhưng giết ta rồi – ai sẽ ngăn được ấn thứ mười ba?
Tả Cửu không giết.
Hắn tra khảo theo lối “hơi thở ngược” – khiến người bị tra không thể nói dối, nhưng cũng không thể ngậm miệng. Và từ đó, bí mật của “Ấn Luân Hội” bắt đầu lộ ra từng mảnh.
Gã khai:
Ấn Luân Hội là hội kín – từ thời Đế quốc cũ. Khi đế triều suy, những người không tin vào ngai vàng, chỉ tin vào sức mạnh của tín niệm, đã tụ họp trong bóng tối. Chúng ta không tôn ai làm vua – mà chỉ lưu truyền công thức tạo niềm tin.
Tả Cửu hỏi:
Ngụy Hắc là chủ mưu?
Gã cười:
Hắn chỉ là kẻ mượn gió. Còn gió – là chúng ta.
Hội này đã bí mật huấn luyện đạo sĩ từ thuở nhỏ, dạy họ cách tạo ra biểu tượng, gieo truyền thuyết, và hơn cả – đọc được tâm lý đám đông. Mỗi “ấn giả” không chỉ là một vật thể, mà là một kịch bản niềm tin, được chuẩn bị từ trước. Mỗi đạo sĩ mang theo câu chuyện khác nhau về ấn, tuỳ vùng, tuỳ dân tộc.
– Ở miền Bắc: ấn đến từ Trời Băng
– Ở miền Nam: ấn là sự hóa thân của Mẫu Thần
– Ở miền Tây: ấn được khai quật từ lăng mộ cổ
– Ở miền Trung: ấn là truyền nhân của Đế tổ
Tả Cửu nghe xong, trầm lặng.
Gã đạo sĩ cười nhạt, nói:
Ngươi bắt được ta. Nhưng hôm nay là mười bốn. Ngày mười lăm, ấn thứ mười ba sẽ xuất hiện, mang tên: Ấn Tuyệt Mệnh.
Trong đêm đó, Tả Cửu ra lệnh chém gã. Nhưng trước khi chết, gã đạo sĩ hét lớn:
Ấn không cần kẻ nắm giữ – chỉ cần người tin vào nó! Dù ngươi chém ta, thiên hạ đã tin, và khi ai cũng tin – thì sự thật phải nhường bước cho lời nói dối!
Máu gã nhuộm đỏ cỏ đêm.
Tả Cửu sau đó quay về báo với Lữ Quang.
Nhưng trước khi rời rừng, y đi một vòng, chôn xác gã đạo sĩ nơi cao nhất. Trên mộ, y khắc:
Kẻ tạo ấn không phải vì ngai vàng – mà vì quyền năng điều khiển đức tin.

Sáng tác
/sang-tac
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất