Lược dịch từ bài viết:"A Tale of One City: Barcelona" của Andrew Flint đăng trên These Football Times:
Người dịch:KDNX

Không thể không yêu thành phố này khi nhìn xuyên qua dòng ánh sáng lung linh tỏa ra dưới bầu trời đêm. Không có từ ngữ nào diễn tả nổi cảm giác choáng ngợp đầy thích thú đó, Barcelona là thành phố của những khung cảnh tuyệt vời. Từ công viên yêu kiều từ TK19 trên ngọn đồi phía sau thành phố ở Tibidabo tới những bậc thang lát đá ở phía trước Parc Guell, đến cây cầu bắc giữa các ngọn tháp của La Sagrada Familia
Leo lên ngọn đồi từ Plaza Espanya qua Font Magica, băng qua khu vườn vinh danh Joan Maragall, nhà thơ Catalan vĩ đại, bạn sẽ thấy sự tương phản của những điều này. Bên trong, tiến lên những bậc thang tới khi những cơn gió mát mẻ dội vào , tôi đã tìm được một khung cảnh riêng biệt; hay ít ra là tôi nghĩ thế khi ngả người trên đỉnh của sân Estadi Olimpic de Montjuic Lluis Companys để ngắm nhìn một trong những thành phố đặc sắc và giàu lịch sử nhất Châu Âu. Ở chính nơi đây, Michael Jackson, The Rolling Stones và AC/DC cùng những người khác, đã lấp đầy SVĐ vĩ đại này với thứ âm nhạc sống động trong quá khứ.
Một hình ảnh cũng mê hoặc không kém đó là FC Barcelona ở thời mạnh nhất, một tổng hòa của những thứ ma thuật gây mê đắm lòng người. Nếu nhìn vào họ bây giờ, sẽ thật khó để hình dung rằng Barcelona từng trải qua những giờ phút khó khăn khi chỉ thắng trận đầu tiên sau 15 trận đấu ở La Liga, chôn chân ở nhóm cuối BXH
Andres Iniesta vẫn chỉ là một cậu nhóc tuổi teen thiếu kinh nghiệm, trong khi đó, cuộc cách mạng bị bỏ ngỏ của Van Gaal để lại một cảm giác mệt mỏi cho toàn đội. Dù mới đem được về Ronaldinho và Quaresma. Chuyến hành quân tới Espanyol có ý nghĩa thực sự to lớn với toàn đội. Nó gần như là một cuộc chiến vậy.
Nếu có một niềm an ủi nào đó cho Barca, thì có lẽ đó là việc Espanyol còn tồi tệ hơn khi họ đang ở đáy BXH trước trận Derby Catalan đầu tiên của mùa giải diễn ra. Bộ cánh rực rỡ thường ngày như bị vứt bỏ. Và đấy chính là điều họ làm. Sản phẩm của lò đào tạo trẻ Barcelona Jordi Cruyff, con của huyền thoại Johan bị Giovanni Van Brockhurst khiến cho ngã chúi nhủi chỉ sau 6 phút, nhưng sau đó cũng chính anh đánh đầu thành bàn từ cú đá phạt của Ivan de la Pena.
Cú sút bồi sau đó của Ronaldinho nhanh chóng phục hồi thế cân bằng, nhưng rồi trận đấu dần biến thành một trong những trận đấu bẩn thỉu nhất lịch sử bóng đá. Marc Overmars đã tiêu hao cả đống thời gian của Cyril Domoraud, và chàng cầu thủ người Bờ Biển Ngà chuyển sang phạm lỗi với tiền đạo cánh này bằng những pha chặt chém. Cruyff trả thù bằng cách chơi cùi chỏ với đồng hương Phillip Cocu, nhưng những điều này là những điều được trông chờ ở một trận Derby.
Patrick Kluivert ghi thêm 2 bàn thắng nữa để đặt đội khách vào thế chủ động trong giờ nghỉ, trong đó có một cú qua người từ góc hẹp, trước khi một loạt những tình huống gây tranh cãi diễn ra.

Trong tình huống phạt góc, Rafael Marquez đấm bóng sau khi bị Antonio Soldevilla vượt lên, nhưng lại chính hậu vệ của Espanyol bị nhắc nhở vì phàn nàn. Các CĐV chủ nhà bắt đầu nổi điên, đốt phá, và ném chúng đi trong sự kinh tởm. Sau đó, mọi thứ còn kệ hơn cho đội chủ nhà khi de la Pena bị đuổi do đốn ngã Michael Reizeger sau khi chàng hậu vệ này qua người một cách khéo léo.
Cảnh sát chống bạo động bắt đầu ập vào khán đài nơi mọi sự đập phá diễn ra khi các thành viên Ultras Sur bắt đầu đập hàng rào ngăn cách, De La Pena thậm chí phải bị giữ lại và kéo khỏi sân. Một quả phạt đền được trao cho Raul Tamundo sau khi pha đi bóng ma thuật của anh bị hàng hậu vệ Barcelona từ chối, trước đó Cocu đổ gục xuống sau một cú đẩy sau của Angel Morales
10 phút điên rồ này tăng thêm sự sôi động cho trận đấu tới tận giờ nghỉ, nhưng còn nhiều thứ hơn thế. Marquez lãnh thẻ đỏ chỉ sau vài phút đầu hiệp hai sau khi phạm lỗi với Tamundo. Giờ đây, bóng đá chỉ là thứ yếu, và trận đấu dần biến thành một cuộc mèo đuổi chuột trong đó mỗi bên cố gắng khiến cho đối thủ chơi xấu mình.
Thật đáng kinh ngạc khi Quaresma bị đuổi vì cùng phạm một lỗi lên cùng một cầu thủ chỉ 3 phút sau đó, khiến Barcelona mất lợi thế về nhân sự.
Những sự bẩn thỉu thì vẫn còn cho tới cuối trận, nhưng dù đang có lợi thế hơn người, Soldevilla vẫn tranh chấp với Gerard Lopez. Dù chỉ là một tranh chấp vô hại, nhưng cầu thủ Barcelona vẫn phản ứng và khiêu chiến. Một lần nữa, trọng tài lại được vời đến và Soldevilla bị đuổi khỏi sân.
Chắc chắn rằng, với những khoảng không gian bị bỏ trống và việc hai bên chỉ còn 9 người, các pha phản công sẽ có hiệu quả hơn, và khi chỉ còn mình Cocu đối mặt với-đoán xem ?- Tamundo, anh ta lại đốn ngã Tamundo và bị đuổi khỏi sân.
Alberto Lopo bị đuổi do nhận thẻ vàng thứ hai khi trận đấu phá vỡ một kỷ lục chẳng ai mong muốn:6 lần đuổi người. Chính thức trở thành trận đấu có nhiều thẻ vàng nhất trong lịch sử. Điều phi thường hơn nữa đó là chẳng vụ nào giống vụ nào. Lửa bốc cháy ngùn ngụt trên khán đài, ghế bị nhổ bật ra, và không hề có một chút lãng mạn nào.
Barcelona sau đó ký hợp đồng dưới dạng cho mượn với Edgar Davids từ Juventus một tháng sau, xốc lại mùa giải đó và kết thúc ở vị trí thứ 2, chỉ 5 điểm kém hơn Valencia của Rafael Benitez. Trận đấu nảy lửa hồi tháng 12 đó không phải là chất xúc tác cho sự tái sinh của mùa giải đó, nhưng điều nó làm đó là nêu bật lên một trong những trận derby ít được coi trọng nhất.
Nhưng làm thế nào mà mối thù hận này lại lên cao tới mức đó ? El Clasico thì không phải bàn; những thứ điên rồ mà cánh truyền thông phủ lên trận chiến giữa Barcelona và Real Madrid thật choáng ngợp với những người ngoài cuộc- Vào tháng 11, 44 trang đầu của tờ báo AS chỉ giành cho El Clasico. Nếu so sánh giữa hai trận đấu này, El Clasico thể hiện rõ bộ mặt chính trị-xã hội hơn Derbi barceloní, vốn có lịch sử phức tạp hơn thế.
Vào năm 1930, Miguel Primo de Riva từ chức Thủ Tướng sau khi mất đi sự ủng hộ của Alfosno XIII và quân đội, và một năm sau ngày nền cộng hòa Đệ Nhị được thành lập sau khi các cử tri bầu ra các ứng cử viên Cộng Hòa, khiến  Alfonso chẳng còn biết làm gì khác ngoài việc bãi bỏ chế độ quân chủ. Cùng năm đó, Đảng Cộng Hòa Cánh Tả Catalan (Esquerra Republicana de Catalunya), một nhóm đòi độc lập cho Catalan, giành được chiến thắng ở cuộc bầu cử địa phương. Trong một nước đi nhằm tách mình hoàn toàn khỏi quyền lực của Madrid. Một thành viên của đảng ERC quyết định tham gia đảo chính quân sự và tự tuyên bố mình là thị trưởng, chính thức đưa Catalan vào tình trạng vô chính phủ.
Companys sau đó được nâng lên thành phát ngôn viên của chính quyền Catalan, và vào năm 1933, trở thành tổng thống. Ông là người có quyết tâm thành lập chính phủ Catalan, và cho đến khi bị xử tử theo lệnh Franco vào năm 1940, ông là tổng thống duy nhất được bầu cử một cách dân chủ bị xử tử ở Châu Âu. Năm 2001, tên của ông được đặt cho SVĐ Olympic. SVĐ mà Espanyol đóng quân suốt 12 năm trời kể từ năm 1997
Tên của cả 2 CLB cũng là một phần quan trọng để hiểu thêm về mối quan hệ giữa họ. Vào năm 1898, mộtt tay kế toán đam mê bóng đá người Thụy Sỹ tên Hans-Max Kamper ngụ cư ở thành phố và bắt đầu chơi bóng nghiệp dư. Quá yêu quý ngôi nhà mới của mình, ông bắt đầu tự gọi mình theo cái tên Catalan Joan Gamper. Ở quê nhà, ông là đội trưởng của CLB mới thành hình FC Basel, và mới ở tuổi 20, lòng nhiệt huyết của ông chưa được đón nhận là bao.
Sau khi thuyết phục các cầu thủ khác thành lập một CLB, ông thành lập Foot-Ball Club Barcelona (Xin hãy lưu ý cái tên Anh Hóa này) cùng với một người Anh tên Walter Wild, người chủ tịch đầu tiên của đội bóng, John và William Parson, 2 người Thụy Sĩ nhập cư và vài người dân địa phương khác. Bộ mặt quốc tế này ban đầu rất thành công, họ vô địch Copa Macaya vào năm 1902, Copa Barcelona vào năm 1905 và đến được trận CK Copa Del Rey vào năm 1903
Một nhóm sinh viên kỹ thuật quyết định thành lập một CLB cho người Tây Ban Nha và do người Tây Ban Nha vào năm 1900 và được biết đến dưới cái tên Club Espanol de Futbol. Họ cũng giành được những thành công đầu tiên sau khi giành được Copa Macaya một năm sau Barcelona, và trở thành quán quân Catalan Championship trong 4 năm trước khi thập niên 1900 kết thúc.
Chính trị đã thúc ép-hay cổ vũ-đổi tên nhiều lần, lần gần đây nhất là đổi từ cách đọc Espanol thành cách đọc theo tiếng Catalan: Espanyol. Vào năm 1912, Alfonso XIII trao tước vị cho đội bóng áo sọc xanh-trắng, màu áo này là một sự tri ân vị thủy thủ người Sicilia, Roger de Lluria. Người từng phục vụ cho Hoàng Gia Arragon. CLB đóng quân ở quận Sarria giàu có. Giờ đây khi đã mang tước hiệu Real Club (CLB Hoàng Gia) Deportivo Espanol, họ đã trở thành một phần bản sắc của Tây Ban Nha.
Dù Barcelona ban đầu rất phát triển, họ bắt đầu sa sút dần vì các cầu thủ vẫn chưa được thay thế, vậy nên Gamper được chọn làm chủ tịch, một chức vụ ông từng làm tới 5 lần để khởi tạo lại sức mạnh cho các thành viên. Vào năm 1909, CLB chuyển đến SVĐ mới, Sân Camp de la Industria, và đến năm 1922, họ đã vượt quá khối lượng 8.000 chỗ ngồi vì giờ đây số lượng fans đã lên tới 20,000 người. Sau đó họ chuyển đến Les Corts, SVĐ có thể chứa đủ lượng fan mới tăng lên, sau đó nó được nâng cấp lên 60,000 chỗ ngồi.
Chính ở SVĐ này, một vụ việc đã diễn ra vào năm 1925 giúp định hình các fan của CLB. Khi quốc ca TBN đang được cử hành, người hâm mộ huýt sáo và phản đối với thái độ thách thức Hoàng Gia và chế độ độc tài của de Rivera. SVĐ sau đó bị đóng cửa 6 tháng như là một hình phạt. Từ đây, mối quan hệ giữa Trung Ương và Catalunya, hay đúng hơn là fan của FC Barcelona, dần kết tinh.
7 năm trước, Espanyol bắt đầu chống lại việc độc lập để rồi bị coi là CLB thân chính quyền. Một nhón CĐV vẫn thường chiến đấu nhân danh đám Falangist trong cuộc Nội Chiến, một hành động báng bổ đối với những người có mối dây liên hệ với Barcelona. Mối thù này được định hình trên sân khi Primera Division ra đời và khi Barcelona vô địch lần đầu. Phải đợi tới khi CTTG II kết thúc, họ mới vô địch lần thứ 2, để rồi sau đó họ dần nhận ra Real Madrid mới là kẻ thù thực sự, một kẻ thù cùng họ chia sẻ 11 chiếc cup trong 15 mùa tính đến đầu những năm 1960.

Espanyol chưa từng vô địch Quốc Gia lần nào, điều khiến cho trận Derby thay đổi ý nghĩa ban đầu. Chiếc Cup Copa Del Rey năm 1940 chính là chiến quả cuối cùng họ giành được hơn nửa thế kỷ qua. Trong khi đó, gã hàng xóm Barcelona đã vô địch 30 cup Quốc Gia. Sự thống trị hoàn toàn của Real Madrid khiến Barcelona dần trở nên tham vọng hơn khi có thêm mục tiêu để nhắm tới.
Việc Franco hỗ trợ Los Blancos khiến cho họ dần chuyển sự thù địch chính quyền trung ương từ gã hàng xóm lên Los Blancos. Một trong số đó là trận hòa nổi tiếng khi những người Catalans thắng 3-0 ở lượt đi Cup Generalisimo-Copa Del Rey hồi đó được biết đến dưới cái tên này-vào năm 1942. Nhà độc tài này rất khó chịu khi đội bóng con cưng, biểu tượng của chính quyền bị hạ nhục như thế. Có tin đồn cho rằng ông cho cảnh sát mật vào phòng thay đồ Barcelona đe dọa trước khi trận đấu lượt về diễn ra ở Madrid. Điều này có diễn ra hay không thì có trời mới biết. Nhưng kết quả thua đậm 11-1 khiến nhiều người không còn nghi ngờ gì về sức ảnh hưởng của Franco khi đem vào bóng đá, nhất là nếu nó liên quan tới Real.
Sân bóng là nơi duy nhất mà bản sắc dân tộc có thể được thể hiện-cũng như các chế độ độc tài khắp TG-và giờ đây, thứ đại diện cho những thứ họ chống lại đang dần len lỏi vào cái thứ mà dân Barcelona nghĩ rằng mình có thể kiểm soát được. Thành phố của họ dẫu sao cũng từng là niềm cảm hứng cho các nhà cách mạng, các họa sĩ và nền độc lập với một sức lan tỏa mạnh mẽ.
Khi George Orwell đến Barcelona dưới tư cách nhà báo, ông bị choáng ngợp bởi ảnh hưởng của nơi này. "Có một niềm tin vào cách mạng và tương lai, một cảm giác bỗng dưng len lỏi vào tai bạn những tiếng tự do và công bằng," ông viết trong bài phát biểu Một sự tri ân Catalonia (A Homage to Catalonia). "Con người cố gắng hành động như con người, không phải như những bánh răng của cỗ máy tư bản"
CĐV Barcelona bắt đầu đưa ý tưởng chiến đấu cho tự do và bản sắc Catalan thành của họ, coi Espanyol là kẻ phản lại phong trào độc lập đầy sôi nổi này-điều tạo nên nền tảng cho trận Derby.
Sự thống trị của Barcelona đã dần khiến Espanyol lu mờ trên đường pitch. Blanquiazules chỉ thắng 3 trận ở Camp Nou ở La Liga trong gần 60 năm và đang bám đuổi thành tính lẫy lừng của gã xàng xóm với chỉ 34 trận thắng khi so với 93, nhưng họ cũng có những đóng góp đáng kể cho bóng đá hiện đại.
Có thể lấy giải thưởng thủ môn xuất sắc nhất TBN, Cup Zamora, làm ví dụ. Nó được đặt tên theo Ricardo Zamora, một gã nghiện thuốc điển trai bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình ở Espanyol khi mới 16 tuổi. Sau đó ông gia nhập Barca trong 3 năm trước khi quay lại nửa kia của thành phố trong 8 năm trước khi đến Real Madrid, nơi cú bắt bóng vi diệu ở phút cuối cùng của ông ở Trận Chung Kết Copa del President de la Republica (Cup Tổng Thống Cộng Hòa) ngăn không cho những ông chủ cũ của mình, Barcelona, lấy đi vinh quang của mình.
Là một người thân Franco, ông được nhận Huân Chương Đại Thập Tự Cisneros (The Great Cross of the order of Cisneros) từ vị Tướng vào năm 1950, và một Huân Chương nền Cộng Hòa (Order of the Republic) vào năm 1934, cả hai hạnh động khiến ông được các fan Espanyol yêu mến và bị ghét bỏ bởi fan Barcelona. Ông không phải là người duy nhất chơi cho cả 2 đội bóng cùng thành phố:Laszlo Kubala trốn khỏi Hungary vào năm 1949, nổi tiếng vì gia nhập Barca, nơi ông ghi 131 bàn thắng trong 186 trận, nhưng ông thực ra từng được phát hiện chơi một trận giao hữu cho Espanyol. Đội bóng ông cũng từng chơi vài mùa.
Derby Catalan được định nghĩa bằng những thứ vượt xa kết quả trên sân. Sự lắp ghép lủng củng giữa cái tước hiệu TBN và cái tên Catalan hóa khiến cá tính của Espanyol thực sự phức tạp, trong khi Barcelona thì chẳng có gì để nghi ngờ cả.
Các hợp đồng quảng cáo, sức thu hút truyền thông và các ngôi sao toàn cầu đầy rẫy ở El Clasico, trận đấu được thương mại hóa nhiều nhất lịch sử. Nhưng ở Catalunya, luôn có một cơn bão âm ỉ-nên cẩn thận giữ minh khỏi sa vào cái cơn điên này.