Ngày 05.05.2008
The Wise One by Kerry Darlington
“Nhìn thế giới trong một hạt cát
Và Thiên Đàng trong một nhành hoa
Giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ ngắn ngủi”
(Thơ William Blake)
1. Tư duy hệ thống
“The world we have created is a product of our thinking; it cannot be changed without changing our thinking“. - Albert Einstein
Tư duy hệ thống là phương pháp tư duy hướng đến mở rộng tầm nhìn để hiểu mối liên hệ tồn tại giữa mọi sự vật, nhận thức được nguyên nhân sâu xa ẩn dưới bề nổi của những hiện tượng tưởng chừng như riêng rẽ. Trong những hệ thống phức tạp như xã hội con người, nhân và quả không ”nhãn tiền” mà thường cách xa nhau trong thời gian và không gian. Do đó có lúc ta dễ tạo ra cái lợi trước mắt mà khó thấy được tác hại lâu dài về sau. Tư duy hệ thống giúp ta thấy bức tranh chính xác hơn của hiện thực được nhìn từ nhiều góc độ, khuyến khích ta suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề và đưa ra những giải pháp với tầm nhìn xa rộng và bền vững. Vì vậy, nó đặc biệt cần thiết cho những người làm lãnh đạo, nhất là khi phải đưa ra những quyết định, sách lược quan trọng.
Phương pháp tư duy thông thường là tư duy tĩnh, tuyến tính, tập trung vào sự kiện, kết quả, xem Nhân-Quả là một chiều và mỗi nguyên nhân độc lập với các nguyên nhân khác. Trong khi đó, tư duy hệ thống là tư duy động - nhìn vấn đề dựa trên những kiểu mẫu hành xử (pattern of behaviour) theo thời gian, phi tuyến (tư duy vòng lặp), tập trung vào nguyên nhân, xem nguyên nhân như một quá trình chứ không chỉ là sự kiện chỉ xảy ra một lần, với kết quả phản hồi ảnh hưởng trở lại nguyên nhân và những nguyên nhân ảnh hưởng lẫn nhau.
Tóm lại, tư duy hệ thống là:
- Tư duy môi trường - bối cảnh (environmental thinking, contextual thinking), tư duy toàn thể (holistic thinking), mở rộng sự thấu hiểu về các liên kết tồn tại giữa các hiện tượng, giữa sự vật với môi trường. Để hiểu một sự vật thấu đáo, ta không chỉ chú tâm vào chi tiết mà còn phải cân nhắc đến bối cảnh xung quanh nó.
- Tư duy mạng lưới (network thinking), chú trọng vào mối quan hệ giữa các sự vật hơn là từng vật thể riêng lẻ, khuyến khích tương tác linh động giữa các cấp bậc trong hệ thống.
- Tư duy tiến trình (process thinking), hiểu rằng muốn thay đổi kết quả, trước hết phải thay đổi tiến trình dẫn đến kết quả, khuyến khích cách quản lý tập trung vào tiến trình hơn là thành quả (liên hệ đến giáo dục, cách đánh giá học sinh qua quá trình học hơn chỉ là điểm số của bài thi cuối cùng).
- Tư duy hồi quy (backward thinking), kiểm tra giả thuyết, đặt ra những câu hỏi hồi tiếp để đi đến tận cùng vấn đề, đây là công cụ bổ túc cho dự đoán (foresight). Đặt ra kế hoạch dựa trên tầm nhìn lý tưởng tốt nhất về tương lai (không giới hạn khả năng của mình). Từ đó, suy nghĩ ngược lại để xác định những phương thức có tiềm năng dẫn đến kết quả mong muốn đó. Chọn giải pháp thích hợp nhất và tối ưu hóa tất cả những bộ phận, mối quan hệ trong hệ thống theo đó. Chưa dừng lại ở đây, với những thay đổi mới, vòng lặp sẽ tiếp tục được lập lại để kiểm tra, điều chỉnh theo những phản hồi từ hệ thống.
Tư duy hệ thống khuyến khích chúng ta thấy rừng chứ không chỉ từng cái cây, ”see the forest for the trees”. Đứng trong rừng, ta chỉ thấy cây, muốn thấy cả khu rừng ta cần góc nhìn bao quát như từ trên cao xuống. Tương tự, những vấn đề rắc rối mà ta đang mắc kẹt nhiều khi không thể giải quyết bằng chính lối tư duy đã gây ra nó. Những lúc như vậy, ta cứ thư giãn, tĩnh lặng cho tiềm thức hành động, để tư duy của chúng ta được tự do sáng tạo, thoát khỏi lối mòn cũ.
Chúng ta thường dính mắc vào chi tiết, mà quên đi cái toàn thể. Như câu chuyện những thầy bói mù xem voi, người sờ tai voi thì bảo con voi giống như cái quạt, người sờ chân voi bảo nó giống như cột nhà… Nhưng hai nửa con voi không phải là một con voi, một hệ thống sống không chỉ gồm tổng thể các bộ phận của nó. Mỗi hệ thống là một toàn thể thống nhất.
Tầm nhìn hệ thống về cuộc sống nhìn thế giới qua các mối liên quan tương tác, kết nối lẫn nhau của mọi hiện tượng vật lý, sinh học, tâm lý xã hội, văn hóa. Phân tích – chia chẻ và tổng hợp là hai cách tiếp cận bổ túc, khi được sử dụng trong cân bằng chừng mực, sẽ giúp ta có được tri kiến sâu sắc hơn về hiện thực.
“Tầm nhìn hệ thống bắt đầu khi bạn nhìn thế giới qua con mắt của người khác”.
Có một điều thú vị là, càng nhìn cuộc sống qua cái nhìn hệ thống, càng mở rộng tầm hiểu biết bao nhiêu, chúng ta sẽ càng thấy mình trở nên khiêm tốn, thân thiện, dễ thích ứng, biết cảm thông, biết tôn trọng sự đa dạng, những ý kiến trái chiều, biết lắng nghe với tinh thần đón nhận cởi mở, khuyến khích mà không “phán xét”. Đây là những điều đã được nghiên cứu trong “Trí Khôn Hệ Thống” – Systems Intelligence, ngành học ứng dụng phương pháp tư duy hệ thống vào những hành xử đời sống hàng ngày.
(Chúng ta sống như những gì mình nghĩ, rồi đến lúc, ta sẽ nghĩ như lối tư duy mà mình đã theo đó sống và hành xử. Có lẽ ai cũng nhớ câu ngạn ngữ quen thuộc “gieo tư tưởng gặt hành vi, gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách gặt số phận”. Nhắc lại những điều này, là vì mình muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của tư tưởng và nhận thức đến cuộc sống của mỗi người.
Trong ba thứ “thân” (hành động), “khẩu” (lời nói), tâm “ý” (suy nghĩ), nghiệp được tạo tác từ “thân”, “khẩu” (hành động đã thực hiện, lời đã nói ra) thường gây ra hậu quả nặng hơn “ý” (chỉ mới là ý nghĩ). Nhưng ý lại được chú trọng nhiều hơn cả, bởi nó là cội nguồn cho hành động và lời nói)…
2. Thống nhất trong sự đa dạng
Trong những hệ thống sống nhiều bậc, mỗi bộ phận của nó lại là những hệ thống nhỏ (holons). Mỗi holon có hai khuynh hướng đối nghịch nhau: (1) hợp nhất với chức năng là thành phần của một tập thể lớn hơn, và (2) tự khẳng định để bảo tồn sự tự trị của chúng. Mỗi holon phải khẳng định “bản sắc” - đặc tính riêng của nó, để thực hiện chức năng của riêng mình, đồng thời nó cũng phải tuân theo những yêu cầu chung của cái toàn thể lớn hơn, để cả hệ thống có thể duy trì và tồn tại được. Hai khuynh hướng này tuy đối nghịch nhưng bổ túc cho nhau và đều cần thiết. Một hệ thống lành mạnh khi các bộ phận của nó vận hành hài hòa, khi hiện diện sự cân bằng giữa hai khuynh hướng hợp nhất và tự khẳng định này. Hệ thống sẽ bị phá vỡ, như ẩn dụ về căn bệnh ung thư, khi một số tế bào ích kỷ bành trướng giành quyền phát triển cho mình mà không hề quan tâm đến toàn bộ hệ thống cơ thể, để rồi tự hủy diệt chính nó khi cơ thể suy sụp.
Sự khuyến khích cạnh tranh hơn là hợp tác là một trong những biểu hiện chính của khuynh hướng ích kỷ trong xã hội chúng ta. Nó xuất phát từ cái nhìn sai lạc về tự nhiên của những nhà Darwin-xã hội thế kỷ 19, những người tin rằng đời sống là một cuộc đấu tranh sinh tồn (survival of the fittest) và cạnh tranh được xem như nguồn động lực của nền kinh tế. Họ quá nhấn mạnh vai trò đấu tranh và mâu thuẫn mà không nhận ra rằng mọi đấu tranh trong tự nhiên đều diễn ra trong một bối cảnh rộng hơn của sự cộng tác.
Ta có thể tìm thấy trong tự nhiên vô vàn những ví dụ về sự phụ thuộc và tương hỗ lẫn nhau. Chim thú họp thành đàn để bảo vệ cho nhau. Phần lớn sự tương hỗ ấy không đơn giản là hai chiều thuận nghịch mà phức tạp trong mạng lưới các liên kết chằng chịt. Một hệ thống càng đa dạng, bảo đảm được nhiều chức năng, càng linh động trước những biến đổi. Chính nhờ sự đa dạng và phức hợp mà xuyên suốt mạng lưới đời sống của hệ sinh thái, những nhu cầu khác nhau của các cá thể khác nhau có thể được đáp ứng. Sự cộng tác hài hòa làm cho các phần tử của hệ thống vận hành phối hợp nhau nhịp nhàng và dễ dàng ở mọi cấp độ.
3. Tất cả là Một
Chúng ta kết nối lẫn nhau trên cả phương diện vật chất và ý thức. Mỗi chúng ta là một phần của những chu kỳ trao đổi liên tục năng lượng, vật chất và thông tin với thế giới xung quanh mình. Nghiên cứu của các nhà cận tâm lý học (parapsychologist) cũng đã xác nhận tâm thức có chủ ý của một người có thể ảnh hưởng đến cảm xúc của người khác hoặc lên vật chất.
Thiên nhiên trên bình diện vi mô của thế giới lượng tử càng khẳng định tính thống nhất và sự liên hệ kết nối giữa mọi hiện tượng. “Tính nhất thể của vạn sự” dưới con mắt của vật lý học hiện đại, đã được Fritjof Capra bàn nhiều trong cuốn “Đạo của Vật Lý”. Ý nghĩa tâm linh và triết học của nó không phải là điều gì mới mẻ mà chính là quan điểm bao trùm của những nền Đạo học phương Đông cổ xưa. Mọi sự vật, biến cố là những bộ mặt khác nhau, những hiện thân của một thực tại cuối cùng, không thể phân chia. Ý thức sinh thái sâu xa là ý thức tâm linh. Khi con người thấy mình hòa nhập với thiên nhiên, với vũ trụ như một cái toàn thể, khi thân và tâm thống nhất, khi con người vượt ra khỏi bản ngã của mình, để cảm nhận được tất cả là Một, lúc đó con người đã đạt Đạo và đó chính là cái Chân Như, Thực Tại cuối cùng.
Tôi là hạt bụi trong gió, bay đi khắp nơi, say đắm vẻ đẹp diệu kỳ của Tạo Hóa biểu lộ trên vạn vật. Đời sống là những chuỗi tuần hoàn vô tận, hết đêm rồi đến ngày. Xuân, hạ, thu, đông, rồi lại xuân…
Tôi là một con người. Sinh ra trên đời là tôi đã mang nặng ân tình của Mẹ Cha, của xã hội. Chiếc áo tôi mặc từ mảnh vải của người thợ dệt, công sức của người thợ may. Hạt cơm tôi ăn chắt chiu từ giọt mồ hôi người nông dân vất vả trên cánh đồng. Tôi không tồn tại một mình.
Ngụm nước tôi uống, không khí tôi hít thở, cọng rau con cá tôi ăn, chúng chuyển hóa thành xương thịt tôi hôm nay. Rồi mai kia khi xác thân này nằm xuống, cát bụi lại về với cát bụi. Tôi lại là gió, là mưa, là mây trời, là cành hoa, ngọn cỏ… Hòa mình trong vòng tuần hoàn miên viễn của tự nhiên đó, tôi thấy mình hiện diện trong tất cả, và chứa đựng tất cả ở trong tôi.
Tài liệu tham khảo chính