Các tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản: SŌRYŪ và HIRYŪ
Kathrin Milanovich ...
Kathrin Milanovich
Sōryū và con tàu chị em một phần Hiryū được xem là những tàu sân bay hạm đội cỡ trung tốt nhất được hoàn thành trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, và đã phục vụ một cách xuất sắc cho đến khi bị đánh chìm trong Trận Midway. Kathrin Milanovich sẽ xem xét quá trình phát triển thiết kế của hai tàu này trong bối cảnh những hạn chế của Hiệp ước London.
Sau thất bại của Hội nghị Hải quân Geneva năm 1927, Bộ Tổng Tham mưu Hải quân Nhật Bản (Naval General Staff- NGS) đã thành lập một ủy ban để nghiên cứu các yêu cầu trong tương lai. Hơn 70 phiên họp đã diễn ra từ ngày 24 tháng 12 năm 1927 đến ngày 6 tháng 8 năm 1928. Kết luận được đưa ra là cần có bốn tàu sân bay để phục vụ cho mục đích phòng thủ quốc gia – chứ không phải ba chiếc như quy định trước đó – và các tàu này phải thuộc loại "cỡ trung", với lượng choán nước tiêu chuẩn 13.500 tấn và một nhóm không quân gồm 36 máy bay (ba phi đội gồm tiêm kích, oanh tạc cơ và trinh sát, mỗi phi đội 12 máy bay), hỏa lực phòng không mạnh, tốc độ cao (34 hải lý/giờ) và tầm hoạt động xa. Những tàu này sẽ được hỗ trợ bởi một số tàu sân bay "phụ trợ" với lượng choán nước tiêu chuẩn 10.000 tấn, mang theo 24 máy bay. Nhu cầu cấp bách về việc đóng mới tàu đã được nhấn mạnh, tuy nhiên với định nghĩa mới về tàu sân bay trong Hiệp ước Giới hạn Vũ trang London năm 1930 [1], tàu sân bay cỡ trung vốn được đưa vào Chương trình Bổ sung Trang bị Hải quân lần thứ nhất năm 1931 đã bị loại bỏ khỏi kế hoạch do bị cắt giảm [2]. Vì dự án này bị từ bỏ, và để chuẩn bị cho chương trình bổ sung kế tiếp, Hải quân Nhật Bản trước tiên đã chuyển sang một kiểu thiết kế lai, kết hợp giữa đặc điểm của tàu tuần dương và tàu sân bay – một kiểu tàu được cho phép theo các điều khoản của hiệp ước London.
Thiết kế “tàu tuần dương sàn bay”
Hiệp ước London không chỉ giới hạn về số lượng tàu tuần dương và tổng lượng choán nước – đối với Nhật Bản là tối đa mười hai tàu loại “A” (pháo 8 inch/20cm) với tổng lượng choán nước 108.400 tấn dài cộng với 100.450 tấn cho loại “B” (pháo 6.1 inch/15.5cm) – mà còn quy định rằng “không quá 25% tổng lượng choán nước được cho phép trong hạng mục tàu tuần dương có thể được trang bị sàn đáp hoặc sàn bay cho máy bay” (Điều 16, đoạn 5). Bên cạnh đó, theo Điều 3, đoạn 2 quy định: “Việc trang bị sàn đáp hoặc sàn cất cánh cho tàu chiến chủ lực, tàu tuần dương hoặc tàu khu trục... sẽ không khiến con tàu được tính vào hoặc phân loại là tàu sân bay.”
Việc ngôn từ chi tiết này được đưa vào hiệp ước theo yêu cầu của phái đoàn Hoa Kỳ đồng nghĩa với việc những gợi ý rằng Hải quân Mỹ đang cân nhắc việc đóng một loại “tàu tuần dương sàn bay” (kōkūjunyōkan) không còn là tin đồn nữa, mà phải được xem là một mối đe dọa thực sự. Để đối phó với những con tàu này, một thiết kế tàu tuần dương sàn bay đã được Phòng Thiết kế Kỹ thuật Hải quân Nhật Bản (NTD) đưa ra vào năm 1932, với mã hiệu thiết kế G6 (kihon keikaku bangō). Tuy nhiên, các kỹ sư hải quân Nhật đã lựa chọn ưu tiên các đặc điểm “tàu sân bay” hơn là “tàu tuần dương”.
Lượng choán nước thử nghiệm chính thức của thiết kế dài 240 m này là 17.500 tấn. Ba tháp pháo đôi 20,3cm Model E có thể nâng nòng lên 70° được bố trí theo cấu trúc chồng tầng phía trước. Ngay phía sau các khẩu pháo chính là một sàn (boong) bay dài 194,2 m vươn nhô ra phía đuôi tàu. Tổng cộng có thể mang theo 70 máy bay tiêm kích và oanh tạc cơ mang ngư lôi (kể cả máy bay dự bị). Có sáu bệ pháo phòng không hai nòng 12,7cm/40 Kiểu 89. Tàu sẽ có một cấu trúc thượng tầng lớn bên mạn phải để bố trí trung tâm chỉ huy, còn hệ thống ống khói từ các nồi hơi sẽ được dẫn ra phía mạn phải ở khoảng giữa chiều cao thân tàu, với hướng nghiêng về phía sau. Công suất động cơ là 150.000 mã lực (shp), tương đương với các tàu tuần dương lớp Mogami đời mới nhất, cho tốc độ tối đa 36 hải lý/giờ.
Tuy nhiên, đề xuất tàu tuần dương sàn bay của Mỹ đã không được cấp kinh phí, và phiên bản Nhật tương ứng cũng bị hủy bỏ trước khi được đưa vào bất kỳ chương trình đóng tàu nào [3]. Nguyên lý thiết kế và thi công đang được ưa chuộng của Hải quân Nhật thời điểm đó cho thấy con tàu này nếu được đóng có thể sẽ có trọng tâm quá cao dẫn đến mất ổn định, và có khả năng thiếu độ bền kết cấu.
Chương trình bổ sung trang bị hải quân lần thứ hai năm 1934
Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản đã xấu đi kể từ Sự kiện Mãn Châu và ngày càng trở nên tồi tệ hơn sau khi nước này rút khỏi Hội Quốc Liên; Nhật Bản dần rơi vào tình trạng bị cô lập trong cộng đồng quốc tế. Mâu thuẫn Nhật–Mỹ về vấn đề Mãn Châu vẫn còn xa mới được giải quyết. Việc Hạm đội Mỹ được tập trung về bờ Tây Thái Bình Dương, đề xuất của Hạ nghị sĩ Carl Vinson bang Georgia về việc mở rộng Hải quân Mỹ lên mức tối đa cho phép theo các hiệp ước hạn chế vũ trang (ngày 4 tháng 1 năm 1932), cùng với Sắc lệnh Hành pháp 6174 của Tổng thống Roosevelt (về việc đóng mới hai tàu sân bay, chín tàu tuần dương, 20 tàu khu trục và bốn tàu ngầm) được giới lãnh đạo Nhật nhìn nhận là những dấu hiệu cho thấy khả năng Mỹ đang chuẩn bị một “giải pháp vũ trang” đối với vấn đề Mãn Châu, qua đó yêu cầu phải nhanh chóng tăng cường lực lượng hải quân.
Hoàng thân Fushimi Hiroyasu, người đã thay Đô đốc Taniguchi Naomi giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Hải quân vào ngày 2 tháng 2 năm 1932, đã đệ trình một bản ghi nhớ cho Hải quân Đại thần Osami Mineo (Tài liệu mật của NGS số 154, đề ngày 6 tháng 5 năm 1933). Sau khi xem xét tình hình quốc tế, ông đề xuất – bên cạnh việc mở rộng lực lượng không quân hải quân và hạm đội trong và sau năm tài khóa 1934, rằng sự thua kém về số lượng của Nhật Bản nên được bù đắp bằng việc cải thiện về chất lượng [4], nhằm đạt đến một mức độ phòng thủ quốc gia đủ để cho phép giải quyết khủng hoảng. Các chi tiết cụ thể sẽ do Phó Tổng Tham mưu trưởng và Thứ trưởng Hải quân xây dựng.
Tuy nhiên, bất chấp nguyên tắc chung, thì với tàu sân bay, “số lượng trước chất lượng” vẫn là nguyên tắc được giữ nguyên, do tính dễ tổn thương của loại tàu này trước các cuộc tấn công, và Nhật Bản cần đạt được thế cân bằng với Hải quân Mỹ. Điều này không chỉ xét đến duy trì “tỷ lệ bất lợi” theo Hiệp ước London so với Hải quân Mỹ và Anh, mà còn căn cứ vào kết quả một nghiên cứu cho thấy Nhật Bản không thể cạnh tranh với hai cường quốc hải quân này về năng lực đóng tàu.
Tại thời điểm đó, Hải quân Đế quốc Nhật có bốn tàu sân bay (Hōshō, Akagi, Kaga, Ryūjō), trong khi Hải quân Mỹ có ba chiếc (Saratoga, Lexington, Ranger). Giá trị tác chiến của Hōshō – nguyên mẫu đầu tiên thuộc loại tàu này – rất hạn chế, Ryūjō thì được xem là một thất bại, còn Akagi và Kaga, trước khi được cải tạo giữa thập niên 1930, chủ yếu vẫn là tàu thử nghiệm. Ngược lại, các tàu sân bay của Hải quân Mỹ đều là những con tàu hiện đại và mạnh mẽ. Tình hình càng trở nên bất lợi hơn khi Sắc lệnh Hành pháp 6174 của Roosevelt cho phép đóng thêm hai tàu sân bay nữa (sau này là Yorktown và Enterprise). Tàu sân bay từng được đưa vào Chương trình Bổ sung Trang bị Hải quân Lần thứ Nhất năm 1931 đã bị loại bỏ vì lý do tài chính, nhưng một yếu tố bổ sung là quy định thay đổi trong hiệp ước, khiến các tàu sân bay dưới 10.000 tấn giờ cũng bị tính vào tổng lượng choán nước; hơn nữa, sức mạnh tác chiến của loại tàu này là rất thấp [5].
Trước sự tăng cường lực lượng của Hải quân Mỹ và mối quan hệ ngày càng căng thẳng với Hoa Kỳ, Hải quân Nhật Bản cho rằng cần thiết phải tối đa hóa tổng lượng choán nước được phép và đóng hai tàu sân bay cỡ trung. Lượng choán nước 12.630 tấn sẵn có có thể được nâng lên 20.100 tấn bằng cách cho tàu Hōshō ngừng hoạt động, theo Điều VIII của Hiệp ước Washington, trong đó quy định rằng “tất cả lượng choán nước của tàu sân bay hiện hữu hoặc đang đóng tính đến ngày 12 tháng 11 năm 1921 được coi là thử nghiệm, và có thể thay thế – trong tổng hạn mức được quy định tại Điều VII – mà không cần xét đến niên hạn.” Để tuân theo thủ yêu cầu của hiệp ước, lượng choán nước tiêu chuẩn của mỗi tàu vì thế được giới hạn ở mức 10.050 tấn.
Vào ngày 14 tháng 6 năm 1933, Hải quân Đại thần nhận được đề cương chương trình mới dưới dạng Tài liệu Mật của NGS số 199 đề ngày 12 tháng 6. Không dưới 86 tàu chiến với tổng lượng choán nước 159.370 tấn sẽ được đóng mới. Đối với hai tàu sân bay, NGS đưa ra các yêu cầu kỹ thuật sau:
Lượng choán nước: 10.050 tấn tiêu chuẩn
Vũ khí: 5 khẩu pháo tầm thấp 20cm bố trí theo trục giữa; 20 pháo tầm cao 12,7cm; >40 súng máy
Máy bay: xấp xỉ 100 chiếc
Tốc độ: 36 hải lý/giờ
Tầm hoạt động: 10.000 hải lý ở tốc độ 18 hải lý/giờ
Hệ thống động lực sẽ là động cơ diesel nếu có thể, và hơn một nửa số máy bay mang theo sẽ được bố trí sẵn trên sàn bay để sẵn sàng cất cánh. Các trang bị hàng không sẽ được thiết kế nhằm tăng tốc độ hoạt động cất/hạ cánh; nếu cần thiết, số lượng máy bay dự trữ sẽ được giảm bớt để đạt được mục tiêu này.
Chương trình Bổ sung Trang bị Hải quân lần thứ hai, giờ đây rút xuống còn 48 tàu với tổng lượng choán nước 137.380 tấn, được đệ trình lên Phiên họp thứ 65 của Quốc hội (từ 28 tháng 12 năm 1933 đến 26 tháng 3 năm 1934). Chương trình được thông qua sau nhiều tranh luận và chính thức ban hành ngày 20 tháng 3 năm 1934, sau khi được Thiên hoàng phê chuẩn. Trong tổng số chi phí là 431.688.000 yên được Quốc hội phê duyệt cho chi phí đóng tàu phụ trợ, 80.400.000 yên được dành riêng cho hai tàu sân bay.
Điều chỉnh các yêu cầu thiết kế
Thiết kế G6 có lượng choán nước tiêu chuẩn khoảng 12.000 tấn, trong khi thiết kế mới đề xuất được yêu cầu phải có một nhóm không quân lớn hơn, nhiều pháo phòng không hơn, sàn bay (và nhà chứa máy bay) dài hơn, và chỉ ít hơn một khẩu pháo 20,3cm so với G6. Rõ ràng các mong muốn của Bộ Tổng Tham mưu Hải quân (NGS) không thể thực hiện được trong giới hạn lượng choán nước 10.500 tấn; để tránh các khiếm khuyết như trên tàu Ryūjō, lượng choán nước cần thiết phải vào khoảng 22.000–25.000 tấn [6].
Tác giả không thể đưa ra một lời giải thích logic cho điều này, nhưng các sử gia Nhật Bản nhìn chung cho rằng những yêu cầu nói trên đã được thiết lập sau khi tham khảo với Phòng Thiết kế Kỹ thuật Hải quân (NTD) (theo quy trình thông thường), và rằng lượng choán nước được công bố là nhằm che giấu đặc điểm thực sự của con tàu [7]. Tuy nhiên, có thể do sự phản đối từ phía NTD, hoặc có lẽ vì bản chất phi thực tế của các yêu cầu đã được thừa nhận, nên một bản yêu cầu mới đã được chuyển đến NTD vào đầu năm 1933:
Lượng choán nước: 10.050 tấn (thời bình); 11.000 tấn (thời chiến)
Pháo tầm thấp (LA): 5 khẩu 15,5cm (1 tháp pháo ba nòng, 1 tháp pháo đôi)
Pháo tầm cao (HA): 16 khẩu 12,7cm (8 bệ nòng đôi)
Súng máy: khoảng 40 khẩu
Máy bay: khoảng 70 chiếc
Tầm hoạt động: 10.000 hải lý ở tốc độ 18 hải lý/giờ
Thiết kế sơ bộ G8 được vạch ra vào mùa thu năm 1933, trở thành thiết kế khởi đầu cho tàu Sōryū. Nó có một số đặc điểm tương tự tàu sân bay Ark Royal của Anh đương thời, đặc biệt là boong bay nhô ra khỏi đuôi tàu, một cấu trúc thượng tầng lớn bên mạn phải nằm ở khoảng 1/3 chiều dài tàu tính từ mũi, và cách sắp xếp theo tầng các thiết bị điều khiển hỏa lực và kính đo xa, tất cả được bố trí tập trung. Một điểm đặc biệt là ống khói thẳng đứng cao đặt phía sau cấu trúc thượng tầng [8]. Hai tháp pháo mang pháo 15,5cm hạ tầm sẽ được lắp theo kiểu quay lưng vào nhau ở boong mũi (boong neo), bên dưới phần đầu boong bay [9], còn các khẩu pháo phòng không 12,7cm – giờ đây giảm còn mười hai – sẽ được đặt trên các ụ nhô ra ở nửa sau thân tàu với góc bắn khá thuận lợi.
Xét về thiết kế tàu sân bay, G6 vượt trội đáng kể so với G8, dù về cỡ nòng, số lượng và vị trí của các khẩu pháo LA trong G6 khiến khả năng tác chiến mặt biển bị giảm đáng kể. Hơn nữa, trong khi giáp bảo vệ của thiết kế G6 tương đương với tàu tuần dương lớp Myōkō, thì G8 hoàn toàn không đủ sức chống lại hỏa lực từ một tàu tuần dương đối phương. Bảo vệ các kho đạn được thiết kế đủ để chống lại đạn pháo 20cm (8 inch), nhưng các khu vực trọng yếu khác chỉ có khả năng chống đạn pháo 12,7cm (5 inch).
Việc lắp pháo LA trong thiết kế này là điều khó hiểu, vì Hải quân Nhật Bản hoàn toàn nhận thức rõ rằng tàu sân bay không phù hợp để giao chiến mặt biển; ngược lại, các máy bay mà nó mang theo có thể làm tê liệt hoặc đánh chìm bất kỳ chiến hạm nào ở khoảng cách vượt xa tầm bắn của pháo. Người ta đã công nhận rằng tàu sân bay cần được bảo vệ trước các cuộc tấn công từ tàu ngầm và máy bay bằng cách bố trí các tàu hộ tống chống ngầm và phòng không, và việc vận hành tàu sân bay trong đội hình gồm các tàu như vậy đã được thảo luận trong nhiều ấn phẩm khác nhau.
Có thể các chiến lược gia trong NGS đã bị ấn tượng bởi tin đồn về việc Mỹ phát triển tàu tuần dương sàn bay đến mức cho rằng Nhật Bản cũng cần phản ứng tương tự. Nếu đúng như vậy, sai lầm về việc trang bị pháo LA 20cm từng xảy ra trên Akagi và Kaga theo Hiệp ước Washington sẽ lại bị lặp lại, lần này là trong bối cảnh các ràng buộc còn khắt khe hơn của Hiệp ước London. Yêu cầu về pháo LA đương nhiên kéo theo chi phí trọng lượng rất lớn. Với thực tế rằng Nhật Bản thua kém về tổng lượng choán nước tàu sân bay và mục tiêu đạt thế cân bằng về số lượng với Hải quân Mỹ, thì việc đầu tư lượng choán nước sẵn có vào một loại tàu sân bay được cải tiến hợp lý hơn nhiều so với một thế hệ tàu lai vừa không hiệu quả trong vai trò tàu sân bay, vừa kém hiệu quả trong vai trò chiến đấu mặt biển.
Giống như các con tàu được thiết kế trong cùng thời kỳ, các yêu cầu quá mức từ phía NGS đã phản ánh vào những khuyết điểm thiết kế xuất hiện sau đó; các bản vẽ sơ bộ đã cố gắng tích hợp những đặc điểm đơn giản là không thể thực hiện được trong phạm vi lượng choán nước cho phép.
Vào cuối năm 1933, ngay cả trước khi chương trình đóng tàu được Quốc hội thông qua, Xưởng Hải quân Kure đã nhận được chỉ thị (mật) chuẩn bị cho việc đóng chiếc đầu tiên, và vào đầu năm 1934 công tác chế tạo sườn tàu, vỏ thép và các tấm giáp đã được khởi động.
Sự cố Tomozuru và tác động của nó
Khi tàu phóng lôi Tomozuru bị lật úp vào ngày 12 tháng 3 năm 1934, mọi hoạt động đóng tàu đang diễn ra đều bị tạm dừng. Các phép tính mới về độ ổn định đã được tiến hành dựa trên báo cáo của Ủy ban Điều tra; và kết quả cho thấy rằng một tàu sân bay khả thi không thể được đóng trong giới hạn lượng choán nước hiện tại [10]. NGS buộc phải thừa nhận rằng các yêu cầu quá mức có thể dẫn đến hậu quả tai hại đối với thiết kế và kỹ thuật đóng tàu nếu các kỹ sư đóng tàu thực sự cố gắng đáp ứng. Do đó, một thiết kế tàu sân bay mới phải được lập ra. Việc lắp đặt pháo LA được cho là không phù hợp với loại tàu này và bị loại bỏ, Sōryū phiên bản cải tiến sẽ được xây dựng như một tàu sân bay thuần túy.
Các thông số sau đây được xác định:
Lượng choán nước: 10.050 tấn
Máy bay: 18 (+6 dự phòng) máy bay tiêm kích
33 (+11 dự phòng) máy bay ném bom bổ nhào
Tổng cộng: 51 (+17 dự phòng)
Công suất động cơ: 152.000 mã lực (giống tàu Kumano)
Tốc độ: 35 hải lý/giờ
Tầm hoạt động: 7.800 hải lý ở tốc độ 18 hải lý/giờ
Vũ khí: 12 pháo HA 12,7cm (6 bệ đôi)
Kho đạn sẽ được bảo vệ để chống lại đạn pháo 20cm bắn từ cự ly 12.000 đến 20.000 mét [11], và khu vực động cơ cùng các bồn nhiên liệu hàng không (avgas) sẽ được bảo vệ chống lại pháo 12,7cm từ tàu khu trục.
Bản vẽ thiết kế sơ bộ G9 được hoàn thành vào cuối tháng 10 năm 1934. So sánh với thiết kế G8 ban đầu cho thấy nhiều thay đổi đáng kể, phản ánh những bài học rút ra từ các sai sót trong thiết kế và quy trình đóng tàu của Nhật trong cuối những năm 1920 và đầu 1930 — một giai đoạn mà tiến bộ kỹ thuật được theo đuổi mà không có đủ nghiên cứu và thử nghiệm thực tế.
Bảng 1 trình bày sự so sánh giữa các đặc điểm của thiết kế G6, G8 và G9. Các bảng này cho thấy: chiều dài thân tàu được rút ngắn, mớn nước tăng lên, cấu trúc thượng tầng (island-"đảo" theo cách gọi cấu trúc thượng tầng và đài chỉ huy của tàu sân bay) được thu nhỏ lại, diện tích mặt bên giảm, hạ thấp trọng tâm (Centre of gravity - CG), mở rộng giới hạn ổn định, thay đổi vũ khí, và sử dụng ống khói cong hướng xuống mạn phải.
Xưởng Hải quân Kure chính thức bắt đầu đóng tàu vào ngày 20 tháng 11 năm 1934. Khi Niwata Shōzō (sau này là Phó Đô đốc thuộc ngành kỹ thuật đóng tàu) được điều về Kure làm giám sát viên đóng tàu vào tháng 7 cùng năm, ụ tàu vừa được chuẩn bị xong để thi công. Vì thiết kế không có thay đổi về kết cấu, phần lớn khung sườn và các tấm thép ban đầu vẫn có thể sử dụng. Ngày 23 tháng 12 năm 1935, chiếc tàu sân bay, được đóng như một bí mật quân sự, đã được hạ thủy; và đến ngày 29 tháng 12 năm 1937, tàu được hoàn thiện, muộn hơn một năm so với kế hoạch [12].
Sau những thất bại ban đầu trong việc cải tạo Akagi và Kaga thành tàu sân bay, cùng với các vấn đề về trọng lượng phần trên của Ryūjō, thiết kế tàu sân bay Nhật Bản đã đạt đến đỉnh cao tính đến thời điểm đó với con tàu thứ năm: Sōryū. Tuy nhiên, kết quả tích cực này chỉ đạt được nhờ kinh nghiệm từ các tàu trước đó, và sau một quá trình thiết kế mà xét về mặt kỹ thuật thì rất khó lý giải. Ở phiên bản cuối cùng, Sōryū mang các đặc điểm điển hình của các thiết kế hiện đại về sau, và trở thành chiếc đầu tiên trong loạt tàu sân bay hạm đội hạng nhẹ hiện đại được đóng cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tuy nhiên, những điểm yếu sau đây đã được thừa nhận và chấp nhận: khả năng bảo vệ kém, nhóm không quân tương đối nhỏ và tầm hoạt động hạn chế. Đây là những điểm sẽ tiếp tục xuất hiện trong các tàu sân bay hạng trung phát triển từ Sōryū. Hơn nữa, ngay cả những gì đạt được như trên cũng chỉ có thể thực hiện được nhờ việc tăng lượng choán nước tiêu chuẩn lên gần 60%.
Mô tả kỹ thuật tổng quát
Hình dạng thân tàu được phát triển dựa trên thiết kế của các tàu tuần dương lớp Mikuma/Kumano đương thời. Nhằm giảm trọng lượng và tiết kiệm nhân lực tại xưởng đóng tàu, đồng thời tận dụng phần trọng lượng tiết kiệm được để tăng cường hỏa lực trong giới hạn lượng choán nước cho phép, ngay cả các chi tiết kết cấu cũng được làm nhẹ, và kỹ thuật hàn điện được áp dụng thay cho tán đinh. Việc gia tăng độ bền dọc của thân tàu được thực hiện bằng cách thay đổi khoảng cách giữa các khung sườn: phần mũi và phần đuôi tàu – nơi chịu ứng suất lớn nhất – có khoảng cách khung là 0,9 m, còn ở giữa thân tàu là 1,2 m.
Sau Sự cố Hạm đội số 4 năm 1935, toàn bộ kết cấu tàu chiến được đánh giá lại. Trong trường hợp của Sōryū, vỏ ngoài được gia cường, đáy kép được gia cố thêm; sàn nhà chứa máy bay trên được tăng cường đáng kể, sàn dưới cũng được gia cố một phần. Dựa trên kinh nghiệm từ Ryūjō, cũng trong quá trình điều tra, người ta quyết định nâng cao mạn khô (freeboard) tại mũi và đuôi tàu thêm một tầng để cải thiện khả năng đi biển. Các biện pháp này khiến lượng choán nước thử nghiệm tăng lên 18.448 tấn và mớn nước tăng lên 7,47 m.
Xu hướng mở rộng kết cấu ra ngoài mạn tàu – như trên Ryūjō – đã bị đảo ngược sau khi con tàu này bị hư hại trong bão. Các hành lang đi lại được chuyển vào trong thân tàu. Mũi tàu được gia cố bằng kết cấu lưới, đuôi tàu được gia cố thêm các tấm thép để chống sóng lớn. Việc lắp con quay hồi chuyển (gyro stabiliser) bị cho là không cần thiết vì Sōryū có lượng choán nước lớn hơn nhiều so với Hōshō và Ryūjō. Tuy vậy, sống lườn giảm lắc (bilge keel) được làm sâu tới 1,8 m và dài bằng 1/3 thân tàu – vượt trội so với các tàu trước đó.
Sàn bay dài 216,9 m – gần bằng chiều dài thân tàu. Chiều rộng cực đại của sàn là 26 m, giảm xuống 25 m ở vị trí gần thượng tầng đảo, và chỉ còn 16 mét ở phần mũi; phần mở rộng ở đuôi rộng 38 m. Phần sàn cong xuống ở đuôi (round-down) vẫn được giữ lại vì chứng tỏ hiệu quả trong việc hạ cánh. Sàn bay được chia bằng các khớp giãn nở nhằm thích ứng với các lực uốn cong và võng thân tàu.
Lần đầu tiên kể từ Hōshō, tàu có thượng tầng đảo được đặt bên mạn phải, nằm trên phần mở rộng của sàn bay, cách mũi tàu khoảng 1/3 chiều dài tàu. Cấu trúc này rất nhỏ, chỉ chứa các phòng và thiết bị điều khiển điều hướng và hoạt động của sàn bay.
Có ba thang nâng máy bay, nối giữa sàn bay và các nhà chứa. Kích thước lần lượt: 11,5 x 16m (trước), 11,5 x 12m (giữa), và 11,8 x 10m (sau). Một tấm chắn gió được đặt phía trước thang nâng số một. Sàn bay có chín dây hãm đà đặt không đều nhau, dây cuối nằm phía sau thang nâng số ba; tất cả nối với hệ thống hãm Kure Type 4. Giữa thang nâng trước và giữa có hai rào chắn va chạm cố định và một rào tháo được. Một rào thứ hai có thể tháo được sẽ được lắp gần chắn gió phía trước mũi tàu. Việc trang bị máy phóng (catapult) đã được tính đến nhưng không bao giờ thực hiện.
Ba đèn pha thu gọn được lắp trên sàn bay và một đèn thứ tư đặt trên bệ ở mũi thượng tầng; mục đích chính là chiếu sáng mục tiêu cho pháo phòng không ban đêm, đồng thời giúp máy bay tìm lại tàu khi quay về. Ăng-ten vô tuyến kiểu gập được lắp trên các bệ hai bên boong bay và sẽ được hạ xuống trong quá trình bay.
Máy bay được bố trí trong hai nhà chứa xếp chồng lên nhau. Nhà chứa trên kéo dài từ boong neo đến boong xuồng phía sau; nhà chứa dưới ngắn hơn, phần phía trước dùng làm phòng sinh hoạt sĩ quan. Cửa ở đuôi nhà chứa dưới, dùng cho việc đưa máy bay vào/ra – không được lắp, vì ở Ryūjō đây từng là điểm yếu về độ kín nước. Thay vào đó, một cửa kín nước vuông kích thước 2 mét được lắp tại nhà chứa trên để sửa và thử động cơ bên ngoài. Máy bay giờ được đưa lên boong bay khi tàu đậu hoặc thả neo; một cẩu gập được đặt trong hốc bên mạn phải phía sau thang nâng phục vụ mục đích này.
Kế hoạch ban đầu chỉ bao gồm tiêm kích và oanh tạc cơ bổ nhào. Tuy nhiên, đến khi hoàn tất Sōryū, kế hoạch này đã được điều chỉnh bốn lần, cuối cùng bổ sung thêm máy bay ném ngư lôi. Tổng số máy bay chở theo là 57 chiếc (+16 dự bị): 12 (+4) máy bay tiêm kích Type 96, 27 (+9 dự bị) máy bay ném bom bổ nhào Type 96, 9 (+3 dự bị) máy bay ném ngư lôi Type 97, 9 (+0 dự bị) máy bay trinh sát Type 97.
Vì đã xác định rằng tàu sân bay “tiêu chuẩn” phải đạt tốc độ tối thiểu là 34 hải lý/giờ, hệ thống động lực của các tàu tuần dương Suzuya và Kumano được áp dụng cho cả Sōryū lẫn tàu chị em Hiryū. Chúng chỉ khác ở cách sắp xếp turbine hành trình (xem phần mô tả Hiryū). Tốc độ tối đa của cả Sōryū và hai tàu tuần dương này là khoảng 35 hải lý/giờ, như trình bày trong Bảng 2.

Bảng 2. So sánh Sõrỹu/Suzuya về lượng choán nước (thử nghiệm), mã lực và tốc độ.
Để đạt tốc độ tối đa giống các tàu tuần dương dù có lượng choán nước lớn hơn, dáng thân tàu tuần dương được sử dụng nhưng chiều dài đường nước tăng từ 198 mét lên 222 mét – cũng giúp tăng độ dài boong bay. Tỷ số V/L (tốc độ trên căn bậc hai chiều dài) của Sōryū là 1,30 so với 1,38 ở Suzuya, giúp giảm sức cản nước.
Bố trí hệ thống động lực là một điểm mới. Mỗi tua-bin và nồi hơi có phòng riêng, tổng cộng 8 phòng nồi hơi và 4 phòng máy – cách bố trí sau này trở thành tiêu chuẩn cho các tàu chiến lớn của Hải quân Nhật. Bồn nhiên liệu nằm phía ngoài phòng máy; các khoang liền kề trước – sau và một phần đáy kép cũng được dùng chứa 3.400 tấn dầu nặng. Học từ Ryūjō, ống khói đặt sau thượng tầng được thiết kế mới: dẫn khí thải lên trên mặt boong rồi bẻ xuống về phía đuôi tàu.
Một vấn đề ở các tàu IJN thời kỳ này là góc nghiêng quá lớn khi chuyển hướng. Dù phần trên quá nặng là nguyên nhân chính, kiểu bánh lái cũng bị nghi ngờ góp phần. Do đó, Sōryū được trang bị hai bánh lái dạng xẻng nghiêng ra ngoài, giúp giảm độ nghiêng.
Sáu pháo phòng không HA 12,7cm/40 Type 89 đặt trong các bệ đôi ở hai bên boong bay; các bệ số lẻ ở mạn phải, số chẵn ở mạn trái. Dựa trên kinh nghiệm từ Ryūjō, phần boong bay được khoét tại vị trí các ụ pháo để giảm phần nhô ra của ụ pháo, giúp góc bắn thuận lợi hơn với mục tiêu đến từ phía đối diện.
Ba trong số mười bốn khẩu súng máy 25mm/60 Kiểu 96 đặt gần mũi tàu phía dưới boong bay bên trái. Mười một khẩu còn lại đặt gần các pháo HA: sáu ở mạn trái, năm ở mạn phải. Bệ pháo HA số 5 và súng máy số 1, 3, 5 có khiên che kín để bảo vệ khỏi khí thải từ ống khói. Hỏa lực pháo HA được điều khiển bởi hai hệ thống điều khiển hỏa lực Type 91, mỗi hệ thống kiểm soát ba bệ cùng bên. Mỗi nhóm súng máy có hệ thống ngắm riêng Type 95.
Phần bảo vệ các khu vực trọng yếu của tàu tương đối yếu như NGS quy định: giáp thẳng đứng 140mm NVNC, boong giữa 40mm bảo vệ kho đạn, và 35mm với một lớp boong 25mm bảo vệ phòng máy. Dù biết rằng mức bảo vệ này không đủ, nó không thể được cải thiện do yêu cầu giữ lượng choán nước trong giới hạn cho phép.
Hiryū: Phiên bản cải tiến của G9
Chiếc tàu sân bay thứ hai tạm thời trong Chương trình Bổ sung trang bị Hải quân lần thứ hai năm 1934 (Maru Ni Keikaku) được dự kiến đặt lườn theo cùng thiết kế với Sōryū, vào khoảng một năm sau tàu chị. Tuy nhiên, NGS yêu cầu thiết kế được sửa đổi để tính đến việc cải tạo Kaga và các thay đổi sâu rộng phải thực hiện trên Sōryū sau Sự cố Tomozuru và Sự cố Hạm đội số 4. Ngoài ra, các khiếm khuyết vốn có trong thiết kế ban đầu cũng đã được nhận ra – nổi bật nhất là thiếu bảo vệ, vốn trở thành “tử huyệt” của dòng tàu sân bay loại trung, nhưng đã được chấp nhận để tránh làm tăng lượng choán nước của Sōryū.
Thiết kế sửa đổi của Hiryū được đánh mã số là G10. Các thay đổi có thể được chia thành hai nhóm lớn: cải thiện chất lượng thân tàu, và cải thiện trang bị phục vụ hoạt động không quân. Do yêu cầu phải thực hiện các nghiên cứu thiết kế và bản vẽ mới, tàu Hiryū chỉ được đặt lườn tại xưởng hải quân Yokosuka vào ngày 8 tháng 7 năm 1936. Tàu được hạ thủy ngày 16 tháng 11 năm 1937 và đưa vào biên chế vào 5 tháng 7 năm 1939, tức trễ 16 tháng so với kế hoạch và hơn hai năm so với thời điểm đưa vào hoạt động đã dự kiến khi Chương trình Tăng cường Vũ trang Hải quân lần hai được phê chuẩn.

Quang cảnh luồng sóng do Sōryū để lại, nhìn từ phía sau của boong chứa xuồng, khi con tàu đang chạy thử tốc độ gần 35 hải lý/giờ vào tháng 11 năm 1937.Chú ý phần mặt dưới của boong bay phía trên, thanh giằng lớn giữa boong chính và boong bay, cùng với lưới an toàn xung quanh mép sàn bay. (Naval History and Heritage Command, NHHC 73062)
Các yêu cầu liên quan đến thiết kế thân tàu bao gồm:
– Cải thiện khả năng đi biển, bằng cách nâng cao mạn khô (freeboard) ở mũi và đuôi.
– Cải thiện độ cơ động, bằng cách thay đổi kiểu bánh lái.
– Gia cường độ bền kết cấu (độ cứng vững) của thân tàu, bằng cách trở lại sử dụng tán đinh thay cho hàn điện đối với các bộ phận quan trọng chịu lực dọc và các cấu trúc chính.
– Tăng độ dày của vỏ ngoài và boong chịu lực.
– Áp dụng ba loại khoảng cách khung sườn khác nhau, tùy theo phân bố đường cong ứng suất trên thân tàu.
– Tăng cường bảo vệ kho đạn.
– Tăng cường tầm hoạt động (yêu cầu này không đạt được).
Các yêu cầu liên quan đến hoạt động không quân bao gồm:
– Tăng chiều rộng boong bay thêm một mét (tức 27 mét, thay vì 26 mét như trên Sōryū).
– Thay đổi vị trí thượng tầng (island): chuyển sang mạn trái, và đặt ở giữa thân tàu thay vì gần mũi như Sōryū.
Mô tả kỹ thuật tổng quát
Yêu cầu của Cục Thiết kế Kỹ thuật Hải quân (NATD) về một sàn bay rộng 27 m đồng nghĩa với việc gia tăng trọng lượng phía trên. Việc giữ nguyên thiết kế thân tàu của Sōryū sẽ làm nâng cao trọng tâm (CG), kéo theo việc giảm khoảng cách giữa CG và chiều cao métacentric (GM), từ đó ảnh hưởng đến tính ổn định. Việc tăng trọng lượng cũng dẫn đến mớn nước sâu hơn, gây ra giảm mạn khô và tốc độ. Để tránh các hệ quả tiêu cực này, một số kích thước thân tàu phải được điều chỉnh. Cụ thể: Bề ngang ở mực nước được tăng thêm 0,7 mét; GM tăng lên 1,81 mét (so với 1,52 mét của Sōryū); Góc ổn định tăng từ 105,2 lên 109,6 độ; Mớn nước tăng lên 7,84 mét; Chiều cao tổng thể tăng 0,1 mét (đạt 20,5 mét); Tuy nhiên, mạn khô ở giữa tàu lại giảm 0,31 mét, còn 12,57 mét tại lượng choán nước tiêu chuẩn.Sự giảm mạn khô này buộc phải nâng cao phần mũi, được thực hiện bằng cách kéo dài boong treo trên đến tận mũi, nơi nó trở thành boong neo. Mạn khô tại đuôi tàu cũng được nâng thêm 0,4 mét để cải thiện khả năng chịu sóng.
Cuộc điều tra sau Sự cố Tomozuru đã chứng minh rõ ràng sự cần thiết phải tăng cường độ bền dọc của thân tàu. Vỏ đáy kép (double bottom) được tăng độ dày, và các kết cấu dọc quan trọng được tán đinh thay vì hàn điện như trên Sōryū. Tuy nhiên, hàn điện vẫn tiếp tục được sử dụng cho các mảng thép và chi tiết không chịu lực chính, để tiết kiệm trọng lượng. Một biện pháp nữa để cải thiện độ bền là sử dụng ba loại khoảng cách giữa các sườn tàu. Khoảng cách 900mm được sử dụng ở Sōryū tại mũi và đuôi thì ở Hiryū được giảm xuống 600mm, rồi tăng dần lên 900mm theo biểu đồ ứng suất; khu vực giữa thân tàu giữ nguyên khoảng cách 1,2 m.
Hình dáng mũi tàu vốn đã được thay đổi trên Ryūjō, và cả Sōryū lẫn Hiryū đều có dạng mũi hình chữ “S”, đặc trưng của tàu chiến Nhật thời kỳ này. Phần dưới đường nước của mũi được vát chéo 30 độ, gần giống mũi Maier, trong khi đường cong phía trên đường nước có hình dạng giống mũi clipper. Cấu trúc này được lựa chọn dựa trên giả định rằng tàu chiến Nhật có thể phải vượt qua bãi thủy lôi được rải bằng thủy lôi Type 1, trong hướng tiến của lực lượng chủ lực Mỹ trong trận đánh quyết định [13].
Sàn bay có chiều dài tương đương và cấu trúc gần giống Sōryū. Dưới ảnh hưởng từ việc cải tạo Kaga, các kỹ sư của NATD quyết định tăng chiều rộng boong thêm 1 mét, do chiều rộng 25 mét ở vị trí "đảo" trên Sōryū bị xem là không đủ. Giá đỡ "đảo" (sponson) ảnh hưởng đến hình dáng vỏ tàu bên ngoài cũng như bố trí bên trong boong treo trên.

"Đảo" - cấu trúc thượng tầng của tàu sân bay. Trong hình này là "đảo" của tàu sân bay Hirỹu vào ngày 7/12/1941.
Tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc, Hōshō, từng được trang bị cấu trúc thượng tầng "đảo", nhưng bị tháo bỏ sau đó do các phi công phản đối. Các tàu Akagi, Kaga và Ryūjō đều hoàn tất với boong phẳng toàn phần. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm sau đó, máy bay, kỹ thuật hạ cánh và trang bị hỗ trợ không quân đều được cải tiến, đồng thời diện tích sàn bay cũng tăng. Ngoài ra, trình độ huấn luyện phi công cũng cao hơn hẳn. Cấu trúc đài chỉ huy kiểu "đảo" đã được các hải quân nước ngoài áp dụng rộng rãi và lợi ích trong điều khiển tàu và điều phối hoạt động bay đã vượt trội so với những phản đối còn sót lại từ giới phi công.
Khi Kaga được cải tạo, quyết định được đưa ra là gắn "đảo" ở mạn phải, tại một phần ba thân tàu tính từ mũi. Kaga hoàn tất vào tháng 6 năm 1935 sau một năm cải tạo và thử nghiệm. Một trong các kết luận là yêu cầu của NATD về việc chuyển thượng tầng về giữa tàu, phía mạn trái, và Bộ Thiết kế Kỹ thuật (NTD) đồng thuận. Tuy nhiên, Sōryū đã tiến quá xa trong xây dựng để thực hiện thay đổi, vì vậy vị trí thượng tầng "đảo" mới này lần đầu được áp dụng trên Akagi (sau khi cải tạo) và Hiryū. So với Sōryū, thượng tầng "đảo" của Hiryū cao hơn một boong, giúp cải thiện tầm nhìn về phía mũi.
Khi Akagi đang được cải tạo, một số phi công tiếp tục phản đối vị trí mạn trái giữa tàu của thượng tầng, và NATD đã nhượng bộ. Tuy nhiên, do Hiryū đã được thi công đến giai đoạn nâng cao nên không thể thay đổi vị trí "đảo", và vị trí giữa tàu – mạn trái được giữ nguyên với cả Akagi và Hiryū, khiến hai tàu này trở thành duy nhất trên thế giới có kiểu bố trí như vậy. Tuy vậy, cũng đã có quyết định rằng Sōryū sẽ là mẫu chuẩn cho các thiết kế tàu sân bay sau này.
Kết cấu boong treo đôi và bố trí thang nâng máy bay về cơ bản giống như trên Sōryū. Kích thước thang nâng được điều chỉnh theo tiến bộ mới nhất trong không quân hải quân: thang trước 13m x 16m, thang giữa 13m x 12m, thang sau 11,8m x 13m. Kính chắn gió và dây hãm giống với Sōryū, nhưng có thêm một rào chắn tai nạn có thể tháo rời. Trang bị boong bay khác, bao gồm cột ăng-ten radio gập, cũng tương tự Sōryū, nhưng số đèn pha rút gọn được tăng lên bốn chiếc (so với ba).
Biên chế máy bay cũng tương tự như Sōryū, trừ việc máy bay ném ngư lôi đã được đưa vào ngay từ đầu. Kế hoạch ban đầu ưu tiên máy bay bổ nhào, và trong cả hai tàu, 27 (+9 chiếc dự phòng) chiếc máy bay ném bom bổ nhào chiếm gần 50% tổng số máy bay. Có hai thang nâng bom và một thang nâng ngư lôi để đưa vũ khí từ kho đạn lên boong treo. Kho chứa ngư lôi Type 91 đủ cho ba phi vụ tác chiến của chín máy bay ném ngư lôi.
Ghi chú trong bảng 3: (1). Trong chế độ vận hành quá tải, hiệu suất được tăng thêm 5% so với công suất thiết kế tối đa, do đó đạt công suất quá tải ở mức 10,5/10. (2) Tốc độ chuẩn của các tàu mặt nước chủ lực ban đầu được tăng từ 14 hải lý/giờ lên 16 hải lý/giờ, rồi tiếp tục tăng lên 18 hải lý/giờ. Đây là giá trị vận hành được xác định chủ yếu bởi yêu cầu phải cơ động vượt trội hơn tàu ngầm đối phương; không có mối liên hệ trực tiếp nào với cái gọi là “tốc độ kinh tế”. Tốc độ chuẩn cũng là cơ sở để tính toán tầm hoạt động. (3) Hệ số hiệu suất cao nhất đạt được ở tốc độ chuẩn của Hiryū: 7.200 mã lực hữu hiệu và đạt 53%. (4) Chênh lệch tốc độ ở mức công suất đầy đủ 10/10 giữa hai tàu là không đáng kể, bất chấp việc Hiryū có lượng giãn nước lớn hơn 1.600 tấn – con tàu sở hữu hệ số lực đẩy vượt trội hơn.
Hệ thống động lực
Tám nồi hơi chính là loại Ro Gō Kampon-shiki cỡ lớn (kiểu B theo phân loại của NTD), sử dụng nhiên liệu dầu, là nồi hơi ống nước loại nhỏ, được trang bị bộ gia nhiệt không khí và bộ quá nhiệt. Chúng thuộc kiểu A, với bộ quá nhiệt đặt ở giữa cụm ống nước, còn bộ gia nhiệt không khí ở phía trên. Phòng nồi hơi không được tăng áp, bởi kết cấu vỏ đôi với luồng không khí có áp lực nằm giữa hai lớp vỏ đã được sử dụng. Áp suất hơi nước tại đầu ra của bộ quá nhiệt là 22 kg/cm², và nhiệt độ hơi là 300°C. Mỗi nồi hơi tạo ra 107 tấn hơi mỗi giờ – đây là mức sản sinh cao nhất trong tất cả các loại nồi hơi từng được Hải quân Đế quốc Nhật sử dụng.
Bốn động cơ chính là turbine hơi nước kiểu Kampon, mỗi cụm gồm turbine áp suất cao (HP), áp suất trung bình (IP) và áp suất thấp (LP), dẫn động qua hộp giảm tốc một cấp. Tua-bin chạy lùi được đặt bên trong vỏ turbine LP. Turbine hành trình (cruise turbines) được lắp đặt trong các phòng máy phía trước và có thể kết nối độc lập với bánh răng HP thông qua một hộp giảm tốc hành trình và khớp nối hàm. Hơi xả từ turbine hành trình được đưa vào turbine HP của trục trong tương ứng. Không có turbine hành trình cho hai động cơ trong.
Công suất của động cơ chính đạt 153.000 mã lực (shp) (so với 152.000shp ở Sōryū), tức là cao hơn 2.000–3.000shp so với động cơ chính của lớp thiết giáp hạm Yamato. Mức công suất này chỉ bị vượt qua bởi các động cơ chính của lớp tàu sân bay Shōkaku và Taihō, vốn đạt 160.000shp.

Bảng 4. Các đặc điểm chung.
Đường ống dẫn hơi chính từ hai phòng nồi hơi phía trước (số 1 & 2) ở mỗi bên tàu được kết hợp với các đường ống từ phòng nồi hơi số 3 & 4 tương ứng, rồi dẫn về phía sau theo bên ngoài thân tàu đến cụm turbine chính phía trước (trục ngoài). Hơi từ các phòng nồi hơi phía sau (số 5 & 7 bên phải và số 6 & 8 bên trái) dẫn về sau theo phía trong thân tàu, và chỉ được hợp nhất sau khi vượt qua vách ngăn của phòng máy phía sau. Một đường nối ngang đặt ngay sau vách ngăn phòng nồi hơi liên kết các ống dẫn hơi chính của cả bốn trục. Các đường ống hơi chính được thiết kế thẳng nhất có thể, có các khớp giãn nở giữa các giá đỡ cố định và cả giữa các van chính của nồi hơi với điểm tiếp nối vào đường ống hơi chính. Mỗi phòng máy đều có nối ngang với đường ống hơi phụ, và các đường hơi phụ này vận hành với cùng áp suất và nhiệt độ như đường chính. Điều này cho phép liên thông giữa hệ thống hơi chính và phụ, đảm bảo rằng nếu cần thiết, các thiết bị phụ trong phòng máy có thể dùng toàn bộ hơi từ đường chính trong cùng khoang [14].
Ngoài ra, một đường nối ngang từ mạn trái sang mạn phải được trang bị chỉ cho các nồi hơi phía trước. Khi vận hành theo cấu hình "split plant" (vận hành chia tách), van vách ngăn sẽ được đóng lại. Hai đường chính chạy dọc trục giữa tàu đến các phòng máy, có kết nối với các đường hơi phụ tại mỗi phòng nồi hơi mà nó đi qua. Tuy nhiên, thực tiễn vận hành thông thường là mỗi nồi hơi cấp hơi độc lập, và phòng máy nhận hơi qua liên kết chính/phụ trong cùng không gian. Một điểm đặc biệt là hơi cấp cho máy hút két (bilge eductors) lấy từ nguồn cung tại chỗ, thay vì từ một tuyến ống trong phòng nồi hơi hoặc máy như ở các lớp tàu khác.
Hệ thống xả phụ được chia làm bốn phần. Hai hệ thống đầu phục vụ hai phòng nồi hơi phía trước mỗi bên (số 1 & 3, và 2 & 4), dẫn hơi về phía sau ra ngoài đến hai phòng máy trước. Hai hệ thống còn lại phục vụ hai phòng nồi hơi phía sau mỗi bên và dẫn về trong đến hai phòng máy sau. Giữa các hệ thống trước và sau ở mỗi bên có đường nối ngang trong phòng máy phía trước. Cũng có nối ngang giữa các hệ thống xả trong hai phòng máy phía sau và phòng máy phía trước. Van vách ngăn tại các phòng máy phía sau có thể điều khiển từ cả hai phía. Còn có đường kết nối giữa bơm dầu bôi trơn ở hai phòng máy trước và sau, giúp duy trì vận hành tối đa trong trường hợp hư hại tác chiến.
Sức chứa dầu nhiên liệu là 3.750 tấn – nhiều hơn 350 tấn so với yêu cầu để Sōryū đạt 8.000 hải lý ở tốc độ 18 hải lý/giờ. Một tài liệu về Hiryū ghi rằng tầm hoạt động thực tế chỉ đạt 7.670 hải lý, song không nêu rõ lý do cho việc giảm 330 hải lý dù mang nhiều nhiên liệu hơn.
Khí xả từ tám nồi hơi được gom lại qua hai ống khói, giống như ở Sōryū và cũng đặt theo cách tương tự. Kiểu ống khói nghiêng xuống dưới, lần đầu được thử nghiệm trên Akagi và tinh chỉnh sau kết quả với Ryūjō, đã trở thành tiêu chuẩn cho Sōryū và các tàu sân bay IJN sau này (trừ một vài ngoại lệ).
Sōryū có hai bánh lái cân bằng đặt song song, nghiêng 18,5 độ hướng ra ngoài nhằm triệt tiêu hiện tượng nghiêng do lực ly tâm khi quay. Qua thử nghiệm, bố trí này được đánh giá là thành công. Tuy nhiên, ở các tàu khu trục Ariake và Yūgure, vốn dùng bố trí bánh lái tương tự, thì lại được cho là thất bại: tốc độ giảm 1,5 hải lý/giờ so với tàu chị em [15]. Sau khi thay hai bánh lái cân bằng bằng một bánh lái bán cân bằng, hiệu suất đã được cải thiện. Rút kinh nghiệm, các kỹ sư giả định rằng hiệu quả của hệ thống lái trên Sōryū có thể còn tốt hơn nếu thay bằng một bánh lái bán cân bằng phù hợp. Sau các điều chỉnh cần thiết ở đuôi tàu, Hiryū được lắp một bánh lái bán cân bằng đơn ở trục giữa. Tuy nhiên, kết quả lại ngược với kỳ vọng: bánh lái này làm bán kính vòng quay ở góc lái nhỏ tăng lên. Trường hợp này cho thấy sự phức tạp trong thiết kế tàu chiến, và chứng minh rằng kết quả trên thân tàu nhỏ không thể dễ dàng áp dụng cho tàu lớn (và ngược lại).
Ghi chú bảng 5: (1) Sổ dữ liệu chính thức ngày 5 tháng 2 năm 1939 – điều kiện tải nhẹ. (2) Sổ dữ liệu chính thức ngày 5 tháng 2 năm 1939 – điều kiện tải đầy đủ. (3) Bao gồm 28,5 tấn thiết bị vô tuyến điện (W/T equipment). (4) Trọng lượng của các thiết bị hàng hải được tính chung trong mục “Điện”. (5) Bao gồm 10 tấn dành cho xuồng của tàu. (6) Bao gồm 24 tấn dành cho máy bay. (7) Theo dữ liệu chính thức, hạng mục này phải thuộc một nhóm trọng lượng khác.
Vũ khí
Tương tự như Sōryū, Hiryū được trang bị mười hai pháo cao xạ Type 89 cỡ 12,7cm/40, bố trí trong sáu bệ đôi gắn trên các ụ nhô ra hai bên thân tàu. Khác biệt là do vị trí đảo chỉ huy được thay đổi, nên có hai bệ pháo mỗi bên ở phía trước và một bệ phía sau mỗi bên. Hệ thống điều khiển hỏa lực sử dụng kiểu Type 94 mới, tích hợp máy đo tầm và bộ điều khiển hướng bắn. Một thiết bị điều khiển đặt trên bệ phía trước cầu tàu, thiết bị còn lại đặt trên boong điều khiển phòng không ở đỉnh đảo chỉ huy.
Phòng thủ tầm gần được tăng cường với ba khẩu pháo máy 25mm bổ sung, nâng tổng số lên 31 khẩu. Cụ thể, có năm bệ đôi (hai ở mũi tàu và ba bên mạn phải phía sau ống khói, đặt trong các tháp pháo kín) và bảy bệ ba nòng (năm bên mạn trái – trong đó hai ở phía trước đảo và ba phía sau; cộng thêm hai bên mạn phải phía trước ống khói). Hiryū là tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật được trang bị bệ pháo ba nòng 25mm. Các khẩu MG (pháo máy) được phân thành năm nhóm, mỗi nhóm gồm hai hoặc ba bệ, điều khiển bởi một bộ điều khiển Type 95. Một thiết bị điều khiển được bố trí trên bệ phía trước mũi tàu; bốn thiết bị còn lại đặt trên các ụ nhô tại bốn “góc” của con tàu. Ở phần kéo dài của boong chứa máy bay phía trên, gần mũi tàu, còn có một khẩu pháo huấn luyện nạp đạn Type 3 (sōten enshū hō) cỡ 12,7cm.

Bảng 6. Độ ổn định.
Chú thích bảng 6: KG (độ cao của trọng tâm so với đáy tàu), GM (chiều cao metacentric), GZ (đòn bẩy hồi phục cực đại), OG (khoảng cách từ trọng tâm đến đáy tàu), A/Am (tỉ lệ diện tích mặt bên phần nổi / phần chìm).
Giáp bảo vệ
Tương tự như Sōryū, phần lớn các bộ phận dễ bị tổn thương của tàu (phòng máy, két xăng máy bay, buồng lái bánh lái) được bảo vệ chống đạn pháo cỡ 12,7cm. Khu vực kho đạn của Sōryū có lớp giáp dày nhất, được thiết kế để chống đạn pháo cỡ 20cm của tàu tuần dương, bắn từ khoảng cách 12.000 đến 20.000 mét. Trên Hiryū, độ dày của lớp giáp được tăng nhẹ; chi tiết có thể tham khảo ở sơ đồ mặt cắt ngang thân tàu ở trang 52. Những cải tiến này không chỉ nâng cao khả năng bảo vệ, mà còn có tác dụng hạ thấp trọng tâm tàu, từ đó cải thiện độ ổn định. Tuy nhiên, gia tăng lớp giáp bảo vệ cũng làm tăng trọng lượng đáng kể, góp phần vào việc tăng 1.000 tấn trọng tải tiêu chuẩn so với Sōryū.
Trang bị xuồng tàu
Giống như Sōryū, boong chứa máy bay phía trên được kéo dài gần đến đuôi tàu để làm bệ chứa xuồng phía trên. Tổng cộng có 11 chiếc xuồng, bao gồm: 3 xuồng máy 12 m, 1 ca nô máy 8 m, 1 xuồng phục vụ 6 m, Những chiếc này được cất giữ trên boong phía trên. Ngoài ra còn có 2 ca nô máy 12 m, 2 xuồng vận chuyển đặc biệt 13 m (dạng xuồng đổ bộ) được đặt tại boong chính. Việc hạ và kéo xuồng được thực hiện bằng một cần trục treo trên thanh ray ngang, gắn dưới sàn boong cất cánh. Hệ ray này chạy ngang từ mạn này sang mạn kia, cho phép nâng/hạ xuồng linh hoạt. Hai xuồng chèo 9 m được treo trên càng hạ xuồng quay (radial davits) lắp bên ngoài thân tàu – loại càng này được áp dụng lần đầu tiên trên tàu Sōryū.
Chú thích
(1). Hiệp ước Washington năm 1922 quy định rằng tàu sân bay là những tàu có lượng choán nước vượt quá 10.000 tấn; các tàu có khả năng mang máy bay dưới ngưỡng này được phân loại là tàu "trợ chiến" và không bị giới hạn số lượng, từ đó Hải quân Đế quốc Nhật (IJN) đã đưa ra thiết kế Ryūjō. Tuy nhiên, theo Hiệp ước London năm 1930, Ryūjō phải được tính vào tổng lượng choán nước của lực lượng tàu sân bay, đồng nghĩa với việc IJN đã sử dụng hết 68.370 tấn (Hōshō: 7.470 tấn; Akagi và Kaga: mỗi tàu 26.900 tấn; Ryūjō: 7.100 tấn) trên tổng hạn ngạch 81.000 tấn. Chỉ còn lại 12.630 tấn.
(2). Quy mô các không đoàn cũng bị cắt giảm đáng kể. Trong Senshi Sōsho, Tập 31, trang 401 có nêu: “...kế hoạch phát triển lực lượng tàu sân bay... không được thông qua, và việc cắt giảm lực lượng Kōkūtai (Không đoàn) còn sâu hơn dự kiến, gây ra vấn đề nghiêm trọng về mặt chiến thuật...”.
(3). Ghi chú của biên tập viên: Có hai vấn đề "chính trị" cơ bản với thiết kế tàu tuần dương mang sàn bay G6: nếu con tàu được xếp vào loại "tàu tuần dương", theo Hiệp ước London, nó sẽ bị tính vào hạn ngạch của Nhật Bản cho loại tàu tuần dương hạng A – và hạn ngạch này sẽ bị lấp đầy khi bốn tàu thuộc lớp Takao được hoàn thành. Ngoài ra, với tư cách là một tàu tuần dương, lượng choán nước tiêu chuẩn tối đa bị giới hạn ở 10.000 tấn. Điều này cho thấy thiết kế này chỉ có tính khả thi "trên giấy".
(4). Điều này đã được khuyến nghị trong tài liệu mật số 215 năm 1932. Nguyên tắc "ưu thế từng chiếc riêng lẻ" (individual superiority) dẫn đến việc phát triển các thiết giáp hạm lớp Yamato, hai tàu sân bay lớp Shōkaku, cùng tàu khu trục và tàu ngầm trong Chương trình Bổ sung Hải quân lần thứ ba (1937), và tiếp tục với một cặp siêu thiết giáp hạm thứ hai, tàu sân bay Taihō, cùng loạt khu trục và tàu ngầm thứ hai trong Chương trình Hoàn tất Hải quân lần thứ tư (1939).
(5). Khi quy định hiệp ước thay đổi, Bộ Tổng Tham mưu Hải quân yêu cầu tăng 50% quy mô không đoàn của Ryūjō, từ 24 lên 36 máy bay; yêu cầu này đã dẫn đến hậu quả nghiêm trọng – xem Hans Lengerer, “The Light Carrier Ryūjō”, Warship 2014, trang 129–145.
(6). Khi Sōryū được đưa vào hoạt động, lượng choán nước tiêu chuẩn là 15.900 tấn. Mặc dù cả số lượng máy bay và vũ khí đã bị giảm mạnh, và yêu cầu về tốc độ cùng tầm hoạt động cũng được hạ thấp, vẫn cần đến 5.850 tấn (khoảng 57% trong tổng 10.050 tấn dự kiến ban đầu) để tạo ra một tàu sân bay hoạt động được. Điều này phản ánh tính quá tham vọng trong yêu cầu thiết kế ban đầu của các mẫu G6 và G8.
(7). Lập luận này thực tế không đứng vững khi xem xét kỹ lưỡng. Bất kỳ ai có hiểu biết về thiết kế tàu chiến đều sẽ nhận ra rằng không thể xây dựng một con tàu với lượng choán nước như vậy mà vẫn đáp ứng được các yêu cầu được đề ra.
(8). Không có tàu sân bay nào của Hải quân Nhật Bản từng được đóng với đặc điểm này.
(9). Điều này cho thấy chiều dài sàn bay của thiết kế G6 (194m) bị coi là không đủ. Trong quá trình tái cấu trúc Kaga, sàn bay với toàn bộ chiều dài đã được thay thế cho các sàn cất cánh phân tầng ngắn của thiết kế ban đầu.
(10). Các nghiên cứu sơ bộ về một tàu sân bay trang bị pháo cỡ 15,5cm cho thấy cần một lượng choán nước tiêu chuẩn phải ít nhất là 14.000 tấn.
(11). Tầm bắn ngắn yêu cầu bảo vệ theo phương thẳng đứng (để chống pháo xuyên mạn tàu), còn tầm bắn xa yêu cầu bảo vệ theo phương ngang (chống pháo rơi từ trên xuống xuyên qua boong tàu).
(12). Việc chậm trễ không phải là điều hiếm gặp trong các con tàu thuộc chương trình này. Sōryū dự kiến hoàn thành vào ngày 31 tháng 3 năm 1937, nhưng năng lực của các xưởng đóng tàu Nhật – vốn đang phải xử lý các cải tiến về ổn định sau Sự cố Tomozuru, rồi đến gia cường kết cấu sau Sự cố Hạm đội 4, cùng việc tái cấu trúc các thiết giáp hạm, tàu tuần dương cũ và hai tàu sân bay Kaga và Akagi – không thể đáp ứng tốc độ mở rộng nhanh chóng của khối lượng công việc. Một số ví dụ khác về sự chậm trễ: Hiryū trễ 16 tháng; tuần dương hạm Chikuma 14 tháng; tàu tiếp tế thủy phi cơ lớp Chitose 9 tháng; tàu chở dầu hạm đội Takasaki 33 tháng.
(13). Trong trận đánh ngày 10 tháng 8 năm 1904, Tư lệnh Hạm đội Nga báo cáo rằng các tàu khu trục Nhật đã thả thủy lôi trên đường đi của lực lượng của ông, khiến đội hình Nga phải đổi hướng bất lợi và dẫn đến chiến thắng cho Nhật. Trên thực tế, tuy đội tàu khu trục Nhật đúng là có cắt mặt hạm đội Nga, họ chỉ thả bao than chứ không phải thủy lôi. Akiyama Saneyuki (sau này là Phó Đô đốc), từng phục vụ trong chiến tranh Nga–Nhật với tư cách sĩ quan tham mưu cho Tư lệnh Tōgō Heihachirō, đọc báo cáo này và đề xuất phát triển loại thủy lôi được thả chặn đường di chuyển của hạm đội địch. Đề xuất được chấp nhận, và vào tháng 10 năm 1904, thủy lôi “tổ hợp” đầu tiên ra đời, gồm bốn quả thủy lôi hình trụ nối bằng dây cáp dài 100m. Cơ cấu kíp nổ điện sẽ kích hoạt sau 15 phút khi vào nước và tự hủy sau 45 phút. Loại thủy lôi này được triển khai tại trận Tsushima, nhưng thất bại vì thời tiết xấu. Sau chiến tranh, một ủy ban chuyên về thủy lôi được thành lập và tiến hành hàng loạt thử nghiệm trong các năm 1915–1916. Đến năm 1916, loại thủy lôi này được phân loại là Thủy lôi Loại 1 (Type 1 Mine). Kiểu thiết kế mũi tàu khoét sâu đặc trưng của các chiến hạm Nhật là nhằm giảm nguy cơ dây thủy lôi bị cuốn vào tàu bạn và kích nổ ngoài ý muốn.
(14). Thường chỉ áp dụng trong điều kiện chiến đấu.
(15). Xem Hans Lengerer, “The Japanese Destroyers of the Hatsuharu Class” (Warship 2007, trang 99).
Phụ lục 1. Một số hình ảnh của tàu sân bay Hirỹu
A. Tổng quan về con tàu

Hirỹu trong giai đoạn năm 1939–1940, ngay sau khi đưa vào hoạt động. Tên Hiryū (飛龍) có nghĩa là "Phi Long".

Hirỹu trong đợt tấn công đầu tiên vào Trân Châu Cảng. Trên sàn bay của nó lúc này có 6 chiếc Mitsubishi A6M2b, 8 chiếc Nakajima B5N2 mang ngư lôi, 10 chiếc Nakajima B5N2 mang bom xuyên giáp. Cáp khử từ đã được lắp đặt dọc theo hai bên thân tàu; võng xếp được sử dụng như lớp bảo vệ bổ sung cho cấu trúc thượng tầng, và máy nạp đạn tập bắn 12,7cm đã bị tháo bỏ khỏi đuôi tàu.

Hirỹu trong đợt tấn công thứ hai vào Trân Châu Cảng. Trên sàn bay của nó lúc này có 9 chiếc Mitsubishi A6M2b, 18 chiếc Aichi D3A1 đều mang bom.

Hirỹu trong trận Midway. Bộ điều khiển hỏa lực trên đỉnh cấu trúc thượng tầng đã được sơn trắng. Nhằm mục đích nhận dạng từ trên không, một vòng tròn đỏ Hinomaru cỡ lớn có viền trắng đã được sơn trên sàn bay. Cờ hiệu của Chuẩn Đô đốc Yamaguchi được kéo lên trên cột buồm.

Con tàu trong đợt tấn công thứ nhất vào Trân Châu Cảng.

Con tàu trong trận hải chiến Midway.

Mặt cắt dọc cho các nhà chứa máy bay, các khoang tàu và các khoang động cơ máy móc.
B. Cách máy bay hạ cánh trên sàn bay
Vận hành hệ thống đèn hỗ trợ hạ cánh từ góc nhìn của phi công
C. Các loại máy bay
D. Các loại xuồng trang bị
Phụ lục 2. Lịch sử của tàu sân bay Hirỹu
Ngày 8 tháng 7 năm 1936: Tàu được đặt lườn tại Xưởng hải quân Yokosuka.
Ngày 16 tháng 11 năm 1937: Lễ hạ thủy chính thức được tổ chức.
Ngày 1 tháng 4 năm 1939: Đại tá Ryūzō Takenaka tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là giám sát quá trình hoàn thiện trang bị cho tàu. Quá trình này kéo dài đến tận tháng 6.
Cuối tháng 4 năm 1939: Các cuộc thử nghiệm máy móc trên biển đầu tiên được tiến hành ngoài khơi Tateyama (bán đảo Bōsō, Honshū).
Cuối tháng 6 năm 1939: Thử nghiệm của con tàu sau khi hoàn thiện ngoài khơi Tateyama. Tàu sân bay đạt tốc độ 34,59 hải lý/giờ.
Ngày 5 tháng 7 năm 1939: Ngày nhập biên chế. Hiryū chính thức được đưa vào hoạt động.
Tháng 7 – tháng 10 năm 1939: Huấn luyện thuỷ thủ đoàn với cường độ cao tại vùng biển nội địa. Các công tác chuẩn bị cho triển khai chiến đấu cũng được tiến hành.
Ngày 15 tháng 11 năm 1939: Đại tá Ichihei Yokokawa thay thế Đại tá Takenaka làm hạm trưởng. Hiryū, cùng với “chị em cùng lớp” là Sōryū, được biên chế vào Hải đội Tàu sân bay số 2 (第二航空戦隊, Dai ni kōkū sentai), trực thuộc Hạm đội số 2. Sōryū trở thành soái hạm của hải đội này.
Tháng 12 năm 1939 – tháng 3 năm 1940: Cả hai tàu sân bay đều tiến hành các cuộc diễn tập chung trong vùng biển lãnh thổ Nhật Bản.
Ngày 26 tháng 3 năm 1940: Hải đội Tàu sân bay số 2 được lệnh di chuyển đến Biển Đông, nơi họ được giao nhiệm vụ hỗ trợ các lực lượng bộ binh Nhật Bản tại Trung Quốc. Hiryū và Sōryū thả neo tại Kirun, Formosa (nay là Cơ Long, Đài Loan, do Nhật chiếm đóng).
Ngày 1 tháng 5 năm 1940: Sau khi hoàn tất nhiệm vụ tại Trung Quốc, Hiryū trở về Sasebo và được đưa vào ụ khô trong những tuần kế tiếp.
Cuối tháng 6 năm 1940: Con tàu chuyển về căn cứ Yokosuka.
Ngày 5–22 tháng 7 năm 1940: Hải đội Tàu sân bay số 2 tiến hành huấn luyện tại vùng biển ngoài khơi Tateyama.
Tháng 8 năm 1940: Hai tàu sân bay đi qua nhiều địa điểm ven biển Nhật Bản, bao gồm Hakodate (Hokkaidō), vịnh Ise (Honshū), vịnh Saiki và Beppu (Kyūshū), và vịnh Sukumo (Shikoku).
Ngày 9 tháng 9 năm 1940: Hiryū đến Kure trong một thời gian ngắn.
Ngày 15–17 tháng 9 năm 1940: Khi đang neo tại Yokosuka, con tàu nhận máy bay từ Sōryū. Lúc đó, Sōryū đang được đưa vào ụ khô để bảo trì.
Cuối tháng 9 năm 1940: Hiryū vận chuyển máy bay đến đảo Hải Nam, nơi chúng hỗ trợ cuộc xâm lược thuộc địa Đông Dương thuộc Pháp của Nhật Bản.
Ngày 11 tháng 10 năm 1940: Cùng với nhiều tàu khác của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, tàu sân bay tham gia duyệt binh hải quân tại vịnh Yokohama.
Ngày 15 tháng 11 năm 1940: Đại tá Shikazō Yano tiếp nhận quyền chỉ huy tàu. Cũng vào khoảng thời gian này, Chuẩn đô đốc Tamon Yamaguchi được bổ nhiệm chỉ huy Hải đội Tàu sân bay số 2. Ông sẽ giữ vị trí này cho đến khi hy sinh và hải đội bị tiêu diệt trong trận Midway.
Ngày 21 tháng 1 năm 1941: Sau một thời gian ngắn ở vịnh Saiki, Hiryū quay về Kure.
Ngày 26 tháng 1 năm 1941: Tàu di chuyển đến Iwakuni ở gần đó.
Ngày 1 tháng 2 năm 1941: Hải đội Tàu sân bay số 2 hướng đến Đài Loan. Trên đường đi, Sōryū va chạm với tàu khu trục Yūzuki và phải quay lại Sasebo để sửa chữa nhẹ.
Ngày 5 tháng 2 năm 1941: Hiryū đến Cao Hùng (Đài Loan ngày nay) và chờ tàu chị em tại đây.
Ngày 22 tháng 2 năm 1941: Cả hai tàu của Hải đội Tàu sân bay số 2 rời cảng và hoạt động giữa Đài Loan và Okinawa. Nhiệm vụ của họ là hỗ trợ phong tỏa hải quân Trung Quốc.
Ngày 24 tháng 2 năm 1941: Các tàu sân bay neo tại vịnh Nakagusuku (Okinawa) để tiếp nhiên liệu, sau đó nhanh chóng tiếp tục nhiệm vụ.
Ngày 3–7 tháng 3 năm 1941: Biên đội lưu lại tại Cao Hùng.
Ngày 12 tháng 3 năm 1941: Hiryū thả neo tại biển Ariake (Kyūshū).
Ngày 25 tháng 3 năm 1941: Con tàu đến Sasebo.
Ngày 29 tháng 3 năm 1941: Con tàu vào ụ khô để sửa chữa nhẹ.
Ngày 10 tháng 4 năm 1941: Sau khi tích lũy được kinh nghiệm chiến đấu quý giá tại vùng biển Trung Quốc, người Nhật đưa ra một quyết định sáng suốt là hợp nhất toàn bộ tàu sân bay thành một lực lượng tác chiến thống nhất. Lực lượng này được đặt tên là Hạm đội Không quân số Một (第一航空艦隊, Daiichi Kōkū Kantai), nhưng thường được gọi là Lực lượng Cơ động (機動部隊, Kidō Butai). Lực lượng nòng cốt gồm ba hải đội tàu sân bay: Hải đội Tàu sân bay số 1 (Akagi, Kaga), Hải đội Tàu sân bay số 2 (Sōryū, Hiryū), và Hải đội Tàu sân bay số 4 (Ryūjō). Tàu Ryūjō có giá trị sử dụng hạn chế và thường không tham gia các chiến dịch lớn. Hải đội Tàu sân bay số 5 (Shōkaku, Zuikaku) sẽ được bổ sung sau trong năm, tạo nên lực lượng không quân hải quân tập trung lớn nhất thế giới cho đến thời điểm đó.
Ngày 26 tháng 4 năm 1941: Sau khi rời Sasebo, Hirỹu đến Hosojima (tỉnh Hiroshima), nơi tàu huấn luyện phi công tại căn cứ không quân Tomitaka gần đó.
Ngày 20 tháng 5 năm 1941: Sōryū gia nhập tàu chị em để cùng tập trận.
Ngày 30 tháng 5 năm 1941: Tàu thả neo tại Beppu (Kyūshū) và tiếp nhận máy bay từ một căn cứ không quân gần đó.
Ngày 30 tháng 6 năm 1941: Hải đội Tàu sân bay số 2 neo đậu tại Yokosuka.
Ngày 10 tháng 7 năm 1941: Cả hai tàu rời cảng và tiến về phía nam. Nhiệm vụ là tiếp tục hỗ trợ Chiến dịch FU (cuộc xâm lược miền nam Đông Dương thuộc Pháp).
Ngày 14 tháng 7 năm 1941: Hiryū và Sōryū tiếp nhiên liệu tại Ma Cao, Trung Quốc.
Tháng 7 năm 1941: Các tàu sân bay đến cảng Samah, đảo Hải Nam.
Ngày 25 tháng 7 năm 1941: Cả hai tàu nhổ neo và tiến về phía đất liền.
Ngày 29–30 tháng 7 năm 1941: Hiryū và Sōryū neo lại tại mũi St. James (gần Sài Gòn) và đảo Côn Lôn (Grande-Condore Island).
Ngày 1 tháng 8 năm 1941: Các tàu trở lại Samah. Khi căng thẳng chính trị vẫn tiếp diễn, các tàu sân bay buộc phải hiện diện trong khu vực.
Ngày 7 tháng 8 năm 1941: Hiryū đến Sasebo và vào ụ khô để đại tu toàn diện. Chiến tranh với Hoa Kỳ được dự đoán là khó tránh khỏi, và phần lớn tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đều được bảo trì tương tự.
Ngày 8 tháng 9 năm 1941: Đại tá Tomeo Kaku thay thế Đại tá Yano làm thuyền trưởng của Hiryū. Trong lúc đó, Đô đốc Yamamoto (tư lệnh Hạm đội Liên hợp) và Bộ Tham mưu bắt đầu lập kế hoạch hành động của hạm đội trong trường hợp chiến tranh xảy ra – điều lúc này gần như chắc chắn. Kidō Butai sẽ được giao nhiệm vụ tấn công căn cứ Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng, đảo Oahu, Hawaii.
Ngày 10 tháng 9 năm 1941: Hiryū rời ụ khô.
Ngày 16 tháng 9 năm 1941: Con tàu đến Izumi (Kyūshū) và tiếp tục huấn luyện gắt gao cho phi đội. Nhằm che giấu ý đồ với đối phương, người Nhật quyết định rằng trong thời gian này, mỗi hải đội tàu sân bay thuộc Kidō Butai sẽ tiến hành các cuộc huấn luyện theo lịch riêng biệt.
Ngày 22 tháng 9 năm 1941: Hiryū tạm thời trở thành soái hạm của Hải đội Tàu sân bay số 2.
Tháng 10 năm 1941: Sōryū và Hiryū ở lại vùng biển ngoài khơi tỉnh Kagoshima (Kyūshū) và tiến hành một loạt huấn luyện phối hợp, nhằm chuẩn bị cho chiến dịch tuyệt mật sắp tới.
Ngày 26 tháng 10 năm 1941: Cờ hiệu của chỉ huy Hải đội Tàu sân bay số 2 được chuyển trở lại tàu Sōryū.
Ngày 1 tháng 11 năm 1941: Cả hai tàu gia nhập với Akagi và Kaga tại vịnh Kagoshima, thực hiện một cuộc tập trận mô phỏng cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng.
Ngày 7 tháng 11 năm 1941: Hiryū đến Sasebo, nơi tàu được chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới. Tàu được tiếp đầy nhiên liệu nặng và xăng máy bay, đồng thời nạp đầy kho vũ khí.
Ngày 16–17 tháng 11 năm 1941: Các phi đội không quân được chất lên boong Hiryū và Sōryū.
Ngày 18 tháng 11 năm 1941: Hải đội Tàu sân bay số 2 rời Kyūshū và tiến đến vịnh Hitokappu (Etorofu, quần đảo Kuril). Đây là điểm tập kết bí mật của lực lượng Nhật cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng.
Ngày 22 tháng 11 năm 1941: Sau khi rời xa vùng duyên hải Nhật Bản để tránh bị phát hiện, các tàu sân bay đến nơi tập kết tại vịnh Hitokappu.
Ngày 26 tháng 11 năm 1941: Các tàu thuộc Kidō Butai nhổ neo và bắt đầu hành trình đến Hawaii. Lực lượng này gồm sáu tàu sân bay (Akagi, Kaga, Sōryū, Hiryū, Shōkaku, và Zuikaku), hai thiết giáp hạm (Hiei và Kirishima), hai tàu tuần dương hạng nặng (Tone và Chikuma), một tàu tuần dương hạng nhẹ (Abukuma) và chín tàu khu trục. Họ được hỗ trợ bởi 23 tàu ngầm hạm đội, 5 tàu ngầm nhỏ và 8 tàu chở dầu. Toàn bộ lực lượng nằm dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Chūichi Nagumo.
Ngày 2 tháng 12 năm 1941: Dù các tàu Nhật đã lên đường, các cuộc đàm phán với Hoa Kỳ vẫn còn đang tiếp diễn. Mãi đến ngày này, quyết định tấn công mới được đưa ra. Bức điện mã gửi cho Nagumo, với nội dung “Leo núi Niitaka 1208”, đã xác định ngày tấn công là 8 tháng 12 (giờ Nhật Bản – tương ứng với ngày 7 tháng 12 tại Hawaii).
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, 06 giờ địa phương ( ngày 8 tháng 12 năm 1941 theo giờ Tokyo): Đợt tấn công đầu tiên của Nhật bắt đầu cất cánh từ sáu tàu sân bay. Từ vị trí cách khoảng 230 dặm về phía tây bắc đảo Oahu, Hiryū đã phóng tám chiếc Nakajima B5N2 mang ngư lôi, mười chiếc Nakajima B5N2 mang bom xuyên giáp 800kg và sáu chiếc Mitsubishi A6M2. Ngay sau khi máy bay cất cánh, công tác chuẩn bị cho đợt tấn công thứ hai được tiến hành.
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, 07 giờ 55 phút: Máy bay Nhật đã đến vùng trời phía trên Trân Châu Cảng. Các máy bay ném ngư lôi từ Hiryū được giao nhiệm vụ tấn công các tàu sân bay Mỹ, nhưng người Nhật không biết rằng hôm đó không có tàu sân bay nào hiện diện trong cảng. Những chiếc Kate (Nakajima B5N2) bắt đầu tìm kiếm mục tiêu thay thế. Bốn chiếc tấn công tàu tuần dương hạng nhẹ USS Helena (CL-50) và tàu rải thủy lôi USS Oglala (CM-4), nhưng không thành công, trong khi bốn chiếc khác nhắm ngư lôi vào thiết giáp hạm USS Oklahoma (BB-37) và USS West Virginia (BB-48), rất có thể đã đánh trúng mục tiêu. Mười chiếc máy bay ném bom bổ nhào từ độ cao lớn đã thả bom nặng xuống nhiều mục tiêu trong khu vực gọi là “Battleship Row” (hai hàng thiết giáp hạm neo đậu cạnh đảo Ford), và nhiều khả năng đã gây ra một số cú đánh trúng. Cú đánh nặng nề nhất được cho là do các phi công từ Hiryū thực hiện là cú đánh trúng thiết giáp hạm USS Arizona (BB-39), khiến hầm đạn phía trước phát nổ. Arizona bị phá hủy hoàn toàn và chìm trong vài giây, gây thiệt hại nhân mạng rất lớn. Các tiêm kích hộ tống từ Hiryū đã quét súng xuống Trạm Không quân Thủy quân lục chiến Ewa, phá hủy nhiều máy bay đang đậu dưới đất.
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, 08 giờ 29 phút: Trung tá Mitsuo Fuchida (chỉ huy đợt tấn công) ra lệnh cho máy bay quay trở về các tàu sân bay. Trong lúc đó, đợt tấn công thứ hai đã được phóng lên và đang tiến đến Oahu. Lực lượng tham gia đợt này của Hiryū bao gồm 18 chiếc Aichi D3A1 và 9 chiếc Mitsubishi A6M2, nhưng một máy bay bổ nhào và một tiêm kích phải từ bỏ nhiệm vụ do sự cố kỹ thuật.
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, 09 giờ: Đợt tấn công thứ hai của các máy bay Nhật bắt đầu tấn công. Các tiêm kích của Hiryū bắn phá nhiều sân bay trên đảo, phá hủy máy bay cả dưới đất lẫn trên không. Các oanh tạc cơ bổ nhào tấn công nhiều tàu bị hư hại từ đợt đầu, và rất có thể đã tham gia đánh bom thiết giáp hạm USS Nevada (BB-36) khi con tàu đang cố gắng rời cảng.
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, 09 giờ 45 phút: Các máy bay của đợt tấn công thứ hai quay trở về các tàu mẹ. Hài lòng với kết quả cuộc tấn công, Đô đốc Nagumo ra lệnh cho toàn bộ lực lượng rút lui ngay sau khi toàn bộ máy bay đã hạ cánh. Tổn thất của Hiryū trong chiến dịch là bốn chiếc Aichi Val và một chiếc Mitsubishi Zero.
Ngày 16 tháng 12 năm 1941: Trên đường trở về Nhật Bản, Hiryū và Sōryū được tách ra và nhận lệnh hỗ trợ cuộc tấn công của Nhật vào đảo Wake, vốn chưa thành công cho đến thời điểm đó.
Ngày 21–22 tháng 12 năm 1941: Cả hai tàu sân bay tiến hành hai đợt ném bom xuống đảo Wake. Hai chiếc tiêm kích Mỹ còn sống sót trên sân bay đã bắn hạ được hai chiếc Kate từ Sōryū trước khi bị tiêu diệt. Tất cả máy bay của Hiryū trở về tàu an toàn.
Ngày 23 tháng 12 năm 1941: Sau khi phần lớn hệ thống phòng thủ bị phá hủy trong các đợt không kích trước đó, quân Nhật chiếm được đảo. Các tàu sân bay nhận lệnh quay về Nhật Bản.
Ngày 29 tháng 12 năm 1941: Hiryū và Sōryū cập cảng Kure. Cả hai tàu được tiếp liệu và bảo trì trong những ngày tiếp theo.
Ngày 8 tháng 1 năm 1942: Hải đội Tàu sân bay số 2 được giao cho Lực lượng Phía Nam để tham gia chiến dịch tại Đông Ấn Hà Lan.
Ngày 11 tháng 1 năm 1942: Các tàu đến nơi neo đậu Hashirajima gần Hiroshima để chuẩn bị xuất phát.
Ngày 12 tháng 1 năm 1942: Hiryū và Sōryū rời biển nội địa và hướng về phía nam.
Ngày 17 tháng 1 năm 1942: Cả hai tàu đến Palau, chờ đợi các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục hộ tống. Lực lượng rời khỏi Palau vào ngày 21.
Ngày 23–24 tháng 1 năm 1942: Các tàu sân bay thực hiện hai đợt không kích thành công xuống Ambon (quần đảo Maluku, Đông Ấn Hà Lan).
Ngày 25–27 tháng 1 năm 1942: Hiryū và Sōryū ghé qua Davao (đảo Mindanao, Philippines) trong thời gian ngắn.
Ngày 28 tháng 1 năm 1942: Hải đội Tàu sân bay số 2 tới Palau, điểm tập kết cho cuộc tấn công vào Úc. Trong những ngày tiếp theo, các tàu sân bay Akagi và Kaga, thiết giáp hạm Hiei và Kirishima, tàu tuần dương hạng nặng Tone và Chikuma, tàu tuần dương hạng nhẹ Abukuma và nhiều tàu khu trục sẽ gia nhập lực lượng.
Ngày 15 tháng 2 năm 1942: Biên đội rời Palau, tiến về bờ biển phía bắc nước Úc.
Ngày 19 tháng 2 năm 1942: Bốn tàu sân bay tiến hành không kích Darwin (Úc) từ khoảng cách 240 dặm. Yếu tố bất ngờ một lần nữa được duy trì. Máy bay Nhật phá hủy nhiều tàu, cơ sở cảng và sân bay gần đó. Một trong số ít tiêm kích Mỹ kịp cất cánh, một chiếc Curtiss P-40 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ đã bắn hạ một chiếc Zero của Hiryū. Phi công sống sót và bị bắt bởi người Úc.
Ngày 21 tháng 2 năm 1942: Lực lượng Nhật đến nơi neo đậu tại vịnh Staring, đảo Celebes. Trong những ngày sau, họ chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công khác.
Ngày 25 tháng 2 năm 1942: Biên đội rời bến để tham gia chiến dịch tấn công đảo Java.
Ngày 1 tháng 3 năm 1942: Nhiệm vụ của các tàu sân bay là tấn công bất kỳ tàu địch nào ở phía nam eo biển Sunda. Các máy bay bổ nhào của Hiryū tham gia đánh chìm hai tàu Mỹ: tàu khu trục USS Edsall (DD-219) và tàu tiếp dầu USS Pecos (AO-6).
Ngày 5 tháng 3 năm 1942: Một đợt ném bom khác nhắm vào cảng Tjilatjap (phía nam Java). Máy bay Nhật đánh chìm hoặc làm hư hại hơn 10 tàu và phá hủy các cơ sở quân sự trong khu vực.
Ngày 7 tháng 3 năm 1942: Hiryū và Sōryū nhận lệnh tấn công đảo Christmas (phía nam Java). Tàu chở hàng Hà Lan Poelau Bras bị đánh chìm trong quá trình này.
Ngày 11 tháng 3 năm 1942: Do không còn mục tiêu có giá trị quanh Java, các tàu sân bay quay lại vịnh Staring.
Ngày 26 tháng 3 năm 1942: Năm tàu sân bay của Kidō Butai (không có Kaga, đang sửa chữa) khởi hành thực hiện Chiến dịch C – sau này được biết đến với tên gọi là Cuộc đột kích vào Ấn Độ Dương (Indian Ocean Raid).
Ngày 4 tháng 4 năm 1942: Khi tiến vào Ấn Độ Dương, lực lượng Nhật bị trinh sát cơ Catalina phát hiện và báo cáo. Máy bay tuần tra không chiến (CAP) của Hiryū đã bắn hạ Catalina này. Trong khi đó, trước nguy cơ bị tấn công, toàn bộ tàu Đồng Minh tại Colombo (Tích Lan) được lệnh rời cảng và các sân bay được báo động.
Ngày 5 tháng 4 năm 1942: Vào sáng sớm, Đô đốc Nagumo ra lệnh phóng máy bay từ khoảng cách 120 dặm ngoài khơi Colombo. Hiryū triển khai 18 chiếc Nakajima B5N2 và 9 tiêm kích hộ tống Mitsubishi A6M2. Trên đường đến mục tiêu, các tiêm kích của tàu gặp sáu chiếc Fairey Swordfish và bắn hạ toàn bộ. Họ cũng bắn rơi một số tiêm kích Hawker Hurricane, đổi lại vài máy bay Nhật bị hư hại nhẹ. Cuộc tấn công nhằm vào cảng và cơ sở hạ tầng, nhưng phần lớn tàu đã rời cảng. Ở trên không, CAP của Nhật tiếp tục bắn hạ một chiếc Catalina trinh sát và một chiếc Fairey Albacore. Trong khi đó, máy bay trinh sát Nhật xác định được vị trí hai tàu tuần dương hạng nặng Anh: HMS Dorsetshire và HMS Cornwall ở phía đông nam Tích Lan. Lập tức có lệnh tấn công – Hiryū triển khai 18 máy bay bổ nhào Aichi D3A1. Các oanh tạc cơ đạt độ chính xác đáng kinh ngạc và đánh chìm cả hai tàu tuần dương chỉ trong vài phút.
Ngày 9 tháng 4 năm 1942: Một cuộc tấn công khác của Kidō Butai nhắm vào cảng Trincomalee (phía đông bắc Ceylon). Hiryū tung ra 18 chiếc Kates và 6 chiếc Zero, mất hai máy bay ném bom. Trong lúc đó, thêm một chiếc Catalina bị CAP của Hiryū bắn hạ. Sau đó, một máy bay trinh sát Nhật báo cáo phát hiện một tàu sân bay Anh về phía nam. Hiryū phóng 18 chiếc Val và 3 chiếc Zero, nhưng khi đến nơi thì HMS Hermes và tàu khu trục hộ tống HMAS Vampire đã bị các tàu Nhật khác đánh chìm. Các phi công của Hiryū chuyển hướng tấn công tàu chở hàng Athelstone và tàu hộ tống HMS Hollyhock, đánh chìm cả hai. Anh phản công: chín máy bay ném bom Bristol Blenheim tiếp cận đội hình Nhật mà không bị phát hiện và suýt đánh trúng Akagi. CAP lập tức phản ứng – tiêm kích của Hiryū giúp bắn rơi hầu hết Blenheim, mất một chiếc Zero trong quá trình giao tranh. Sau khi hoàn tất chiến dịch, Kidō Butai quay về Nhật qua eo biển Malacca.
Ngày 18 tháng 4 năm 1942: Hải đội Tàu sân bay số 5 (bao gồm Shōkaku và Zuikaku) được tách ra để thực hiện Chiến dịch MO (nỗ lực chiếm cảng Moresby, Papua New Guinea – dẫn đến trận Biển San hô). Sau này, thủy thủ trên hai tàu này không bao giờ gặp lại các tàu sân bay khác trong Kidō Butai. Trong khi đó, tàu sân bay Mỹ USS Hornet (CV-8) và USS Enterprise (CV-6) bất ngờ không kích khu vực vịnh Tokyo. Akagi, Hiryū và Sōryū, lúc này đang ở giữa Đài Loan và Luzon, lập tức đổi hướng và tăng tốc để truy đuổi địch – nhưng không thành công.
Ngày 22 tháng 4 năm 1942: Hiryū trở lại Sasebo. Tàu được bảo trì và tiếp tế cần thiết – lần nghỉ ngơi dài đầu tiên kể từ đầu chiến tranh. Trong khi chờ nhiệm vụ tiếp theo tại neo đậu Hashirajima, phi đội không quân của tàu được chuyển về huấn luyện tại căn cứ không quân Tomitaka. Vào thời điểm này, Chuẩn Đô đốc Yamaguchi quyết định chuyển soái hạm từ Sōryū sang Hiryū, vốn có điều kiện tốt hơn cho Bộ Tham mưu.
Đầu tháng 5 năm 1942: Quá trình tập hợp lực lượng Nhật chuẩn bị cho chiến dịch lớn tiếp theo – Chiến dịch MI. Mục tiêu là chiếm đảo san hô Midway (phía tây Hawaii), nhằm dụ các tàu sân bay Mỹ ra và tiêu diệt chúng. Tuy nhiên, người Nhật không biết rằng mật mã của họ đã bị giải mã – người Mỹ biết rõ kế hoạch của Hạm đội Liên hợp.
Ngày 27 tháng 5 năm 1942: Kidō Butai rời Hashirajima tiến về Midway. Là một trong các lực lượng tác chiến Nhật trong chiến dịch, Hạm đội Không quân số Một bao gồm: tàu sân bay Akagi, Kaga, Hiryū, Sōryū; thiết giáp hạm Haruna, Kirishima; tàu tuần dương hạng nặng Tone, Chikuma; tàu tuần dương hạng nhẹ Nagara và 11 tàu khu trục. Do bị hư hại trong trận Biển San hô ngày 8 tháng 5, Shōkaku và Zuikaku không thể tham chiến.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 04 giờ 28 phút theo giờ địa phương: Trận Midway. Các tàu sân bay của Kidō Butai đã phóng đợt tấn công từ khoảng cách 250 dặm về phía tây bắc của đảo san hô. Lực lượng không quân từ Hiryū bao gồm 18 chiếc Nakajima B5N2 (một chiếc phải hủy nhiệm vụ do trục trặc kỹ thuật) và chín chiếc Mitsubishi A6M2 (trong đó ba chiếc được chỉ định làm CAP). Thiếu tá Fuchida từ tàu Akagi bị bệnh và không thể chỉ huy cuộc tấn công, vì vậy trung úy Jōichi Tomonaga từ Hiryū được chọn làm chỉ huy lực lượng tấn công. Mệnh lệnh là tiêu diệt các công trình quân sự trên đảo san hô.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 06 giờ 17 phút – 07 giờ 25 phút: Biên đội tấn công Midway, nhưng lực lượng phòng thủ đã chuẩn bị kỹ càng và người Nhật vấp phải sự kháng cự dữ dội từ các máy bay tiêm kích và hỏa lực phòng không mạnh mẽ. Các máy bay ném bom gây được thiệt hại nặng lên hai đảo của cụm đảo san hô, nhưng Tomonaga đã điện báo về hạm đội rằng cần có một đợt tấn công thứ hai để triệt hạ hoàn toàn hệ thống phòng thủ. Máy bay của Hiryū chịu thiệt hại nặng nhất trong toàn bộ lực lượng tham chiến: tất cả các chiếc Zero đều quay về tàu mẹ (hai chiếc bị hư hại), nhưng năm chiếc Kate bị bắn rơi và thêm năm chiếc bị hư hỏng nặng đến mức không thể sử dụng.

Tây bắc Midway vào ngày 4 tháng 6 năm 1942, vào khoảng 08 giờ. Hiryū đang thực hiện một loạt vòng ngoặt gắt ở tốc độ cao để né tránh bom do một tốp B-17 ném xuống. Các cột nước bắn lên có thể thấy rõ ở cả hai bên luồng sóng sau tàu sân bay, nhưng con tàu không bị trúng bất kỳ quả bom nào trong cuộc tấn công này. (Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ, USAF-3725)
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 07 giờ 10 phút: Các máy bay ném ngư lôi từ Midway xuất phát tấn công Kidō Butai. Các máy bay hai động cơ B-26 Marauder nhắm vào Akagi, trong khi TBF Avenger nhắm vào Hiryū. Không có ngư lôi nào trúng mục tiêu. CAP của Nhật bắn hạ bảy máy bay địch, và Hiryū mất một chiếc Zero.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 07 giờ 45 phút: Một máy bay trinh sát từ tàu tuần dương Tone báo cáo phát hiện một lực lượng tác chiến địch ở phía đông bắc Kidō Butai. Tin này là một cú sốc đối với đô đốc Nagumo, và ông lập tức ra lệnh tái trang bị bom/chất nổ chống hạm cho các máy bay đang trong nhà chứa. Sự hiện diện của hạm đội Mỹ là một phần trong kế hoạch đánh lừa tỉ mỉ nhằm giăng bẫy quân Nhật. Lực lượng đặc nhiệm 16 gồm các tàu sân bay USS Enterprise (CV-6) và USS Hornet (CV-8), còn Lực lượng đặc nhiệm 17 có một tàu sân bay – USS Yorktown (CV-5).
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 07 giờ 55 phút: Hiryū bị tấn công bởi 16 chiếc SBD Dauntless từ Midway. Không quả bom nào trúng đích, sáu máy bay Mỹ bị bắn hạ, trong khi Hiryū mất thêm một chiếc Zero. Ngay sau đó, 12 chiếc B-17 bốn động cơ xuất hiện ở độ cao lớn trên Kidō Butai, bốn chiếc ném bom nhắm vào Hiryū. Tàu né tránh thành công nhờ cơ động nhanh.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 09 giờ – 09 giờ 10 phút: Biên đội tấn công Midway quay về, và Hiryū thu hồi máy bay.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 09 giờ 20 phút –10 giờ: Các máy bay từ tàu sân bay Mỹ bắt đầu tấn công. Mười lăm chiếc TBD Devastator của phi đội VT-8 từ tàu Hornet cố thả ngư lôi nhắm vào Sōryū, nhưng toàn bộ bị bắn rơi, không chiếc nào trúng đích. Mười bốn chiếc Devastator (VT-6 từ Enterprise) tấn công ngay sau đó, cũng không khá hơn: mười chiếc bị bắn hạ bởi CAP Nhật, và mục tiêu Kaga không bị thiệt hại gì.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 10 giờ 15 phút – 10 giờ 30 phút: Một phi đội Devastator khác (VT-3 từ Yorktown) tấn công Hiryū, lần này có sáu chiếc F4F Wildcat (VF-3 từ Yorktown) hộ tống. Cuộc tấn công thất bại, nhưng máy bay hộ tống bắn hạ được ba chiếc Zero của Hiryū. Ngay sau đó là thời khắc bước ngoặt của trận đánh. Trong lúc quân Nhật đang bận đánh trả các đợt tấn công liên tiếp, họ không phát hiện được một đòn hiểm đang đến từ phía trên: các máy bay Mỹ tiếp cận mà không bị phát hiện và đánh trúng mục tiêu. Gần như đồng thời, ba phi đội SBD Dauntless (VB-6 và VS-6 từ Enterprise, VB-3 từ Yorktown) lao xuống Kidō Butai. Akagi, Kaga và Sōryū đều bị trúng bom, lửa cháy dữ dội trên boong và trong nhà chứa máy bay. Cuối cùng, các đòn đánh này đã khiến cả ba tàu không thể cứu vãn. Hiryū là chiếc duy nhất không bị trúng bom.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 10 giờ 54 phút: Sau khi chuẩn bị xong, Hiryū phóng đợt phản công vào các tàu sân bay địch. Đợt này gồm 18 chiếc Aichi Val và sáu chiếc Mitsubishi Zero hộ tống. Trung úy Michio Kobayashi làm chỉ huy biên đội. Trên đường đi, các chiến đấu cơ đụng độ với các SBD Dauntless từ Enterprise. Hai chiếc Zero bị hư hại nặng và phải quay về, bốn chiếc còn lại bị lạc khỏi biên đội Val.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 12 giờ 10 phút: Biên đội của Kobayashi tấn công Yorktown. Tàu sân bay này được các chiếc F4F Wildcat hộ tống phòng thủ rất quyết liệt. Ba chiếc Zero và 11 chiếc Val bị bắn hạ khi tiếp cận. Trong số bảy chiếc còn lại, hai bị hạ bởi pháo phòng không. Dù vậy, Yorktown vẫn chịu tổn thất nặng – ba quả bom trúng đích và hai quả rơi gần. Quân Nhật tin chắc rằng con tàu sẽ chìm chỉ trong vài phút.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 13 giờ 30 phút: Hiryū phóng đợt tấn công thứ hai nhằm đánh thêm một tàu sân bay Mỹ khác. Biên đội gồm mười chiếc Nakajima B5N2 (một chiếc từ Akagi) và sáu chiếc Mitsubishi A6M2 (hai chiếc từ Kaga). Tomonaga, lái máy bay bị hư hại và chỉ đủ nhiên liệu để về lại Hiryū, dẫn đầu đợt tấn công.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 14 giờ 34 phút: Lực lượng của Tomonaga tấn công một tàu sân bay mà họ cho là tàu khác. Thực tế, Yorktown đã dập tắt được lửa và trở lại hoạt động, khiến trông như một tàu còn nguyên vẹn. Các F4F Wildcat hộ tống cố gắng bảo vệ, nhưng ba chiếc bị Zero bắn hạ. Hai quả ngư lôi trúng Yorktown, khiến tàu bị tê liệt và nghiêng nặng. Tàu sẽ chìm vào ngày 7 tháng 6. Trong khi đó, biên đội Nhật tả tơi quay về Hiryū. Chỉ năm chiếc Kate và bốn chiếc Zero quay lại được. Tất cả máy bay còn lại, kể cả máy bay của Tomonaga, bị tiêu diệt bởi tiêm kích và hỏa lực phòng không Mỹ. Yamaguchi ra lệnh chuẩn bị phóng đợt tấn công thứ ba ngay khi có thể.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 17 giờ: Một nhóm lớn SBD Dauntless từ Enterprise và Hornet tiếp cận Hiryū. Nhóm tấn công bị phát hiện muộn, nhưng các Zero hộ tống vẫn bắn rơi được ba chiếc trước khi bom được thả. Bất chấp nỗ lực của các tiêm kích và các pha cơ động của tàu, Hiryū vẫn bị trúng bốn quả bom 1.000 lb. Tất cả các điểm trúng đều gần nhau ở phần mũi boong tàu, một trong số đó trúng thang máy số 1, mảnh lớn của thang máy bị hất lên và rơi ra phía sau, tựa vào cấu trúc thượng tầng.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 17 giờ 15 phút – 21 giờ: Lửa dữ dội lập tức bùng lên, kèm theo các vụ nổ của máy bay và đạn dược trong các nhà chứa máy bay. Bất chấp nỗ lực của các đội kiểm soát hư hại, tình hình không thể kiểm soát được. Tuy nhiên, máy móc của tàu vẫn còn nguyên vẹn và Hiryū vẫn có khả năng duy trì tốc độ cao, mặc dù một ít khói và hơi nóng bắt đầu tràn vào các phòng máy qua các ống thông gió. Phần trước của sàn đáp bị sập xuống, khiến nó không còn sử dụng được nữa. Các tiêm kích thuộc lực lượng CAP đang bay vòng phía trên phải lần lượt hạ cánh xuống biển khi thùng nhiên liệu cạn kiệt.
Ngày 4 tháng 6 năm 1942, 21 giờ 23 phút: Khi phần trần của các phòng máy trở nên đỏ rực vì nhiệt, con tàu giờ đây không còn khả năng vận hành máy móc. Con tàu dừng lại. Người ta cho rằng toàn bộ nhân sự trong các phòng máy đã thiệt mạng vì đã mất liên lạc với họ.
Ngày 5 tháng 6 năm 1942, 02 giờ 30 phút: Yamaguchi kết luận rằng không thể cứu được Hiryū. Đô đốc cùng thuyền trưởng Kaku nói chuyện với các thủy thủ được tập hợp và ban hành lệnh bỏ tàu. Những người sống sót được các tàu khu trục Kazagumo và Makigumo cứu vớt. Yamaguchi và Kaku quyết định ở lại và chìm cùng tàu sân bay.
Ngày 5 tháng 6 năm 1942, 05 giờ 10 phút: Chỉ huy tàu Makigumo thực hiện nhiệm vụ đánh đắm Hiryū. Một trong hai ngư lôi Type 93 phóng về phía tàu sân bay đã trúng đích, đánh vào mũi phải. Khi tàu khu trục đang rời đi, một số người xuất hiện trên sàn đáp, nhưng Makigumo không quay lại. Đó là các thành viên tổ máy, những người cuối cùng đã thoát ra được.

Tây bắc Midway vào sáng ngày 5 tháng 6 năm 1942. Một bức ảnh khác được chụp bởi máy bay từ tàu Hōshō. Thủy thủ trên boong đã được tổ trinh sát báo cáo, nhưng không ai có thể thấy rõ trong bức ảnh này. Toàn bộ phần trước của sàn đáp đã bị phá hủy và sụp xuống khoang chứa máy bay bên dưới. Sau nhiều giờ, các đám cháy vẫn chưa được dập tắt và con tàu bị bao phủ bởi khói lửa. (Naval History & Heritage Command, NH 73065)
Ngày 5 tháng 6 năm 1942, 06 giờ 30 phút: Một máy bay trinh sát từ tàu Hōshō phát hiện xác tàu Hiryū đang trôi lềnh bềnh trên mặt biển, nhưng một cách đáng ngạc nhiên là nó vẫn chưa chìm. Các bức ảnh được chụp lại và người ta quan sát thấy vẫn còn thủy thủ trên boong.
Ngày 5 tháng 6 năm 1942, 09 giờ 12 phút: Hiryū cuối cùng cũng chìm không lâu sau khi 39 người rời tàu trên một chiếc thuyền chèo. Khoảng 400 người trong thủy thủ đoàn của tàu sân bay đã thiệt mạng.
Ngày 19 tháng 6 năm 1942: Bốn trong số những người sống sót đã chết khi trôi dạt nhiều ngày trên chiếc thuyền chèo. Số còn lại được tàu tiếp tế thủy phi cơ Mỹ USS Ballard (AVD-10) cứu vớt.
Ngày 25 tháng 9 năm 1942: Hiryū bị xóa khỏi sổ đăng bạ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Việc này có lẽ được thực hiện muộn vài tháng nhằm che giấu kết cục thảm khốc của trận Midway trước công chúng.
Tháng 10 năm 2019: Xác tàu Akagi và Kaga được các nhà nghiên cứu trên tàu RV Petrel phát hiện và ghi hình. Tính đến năm 2021, vị trí và tình trạng chính xác của xác tàu Hiryū và Sōryū vẫn chưa được biết.
Nguồn tài liệu tham khảo hai phụ lục: Dramiński, Stefan (2022), Anatomy of the ship, The aircraft carrier Hirỹu, Osprey Publishing.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất












































