Tham vọng bá quyền luôn là thứ giết chết các đế chế và các nhà nước mà khi ta nhìn vào sẽ nghĩ rằng nó sẽ tồn tại một cách trường cửu. Có những đế chế sụp đổ sau khi người thành lập nên chúng chết đi - như cách của Alexander Đại đế và đế chế Macedonia của mình. Nhưng có những đế chế sụp đổ bởi chính những quyết định sai lầm của nhà cầm quyền, dù đế chế đó đang trong thời kỳ huy hoàng hay đang ở buổi xế chiều. Một trong những người như thế chính là Napoleon Bonaparte.

1. PAX GALLICA

<i>The Divorce of the Empress Josephine của Henri Frédéric Schopin</i>
The Divorce of the Empress Josephine của Henri Frédéric Schopin
Ngày 15 tháng 12 năm 1809, tại một buổi họp đặc biệt có mặt tất cả những thành viên già đình ở Paris - Letizia, Louis cùng Hortense, Jerome cùng Catherine, Julie vợ Joseph, Eugene, Murat và Caroline, Pauline – có cả Quốc vụ khanh phụ trách hoàng gia Regnaud de Saint-Jean d’Angely và Cambaceres. Napoleon và vợ - Hoàng hậu Josephine đã đọc các văn bản được soạn sẵn thông báo về ý định li hôn và lí do của hai người. Biên bản cuộc họp của Regnaud được tất cả những người có mặt kí và chuyển sang cho hội đồng xu mật, tối đó họ đã soạn một bản senatus-consulte. Văn bản đã được Regnaud trình lên Tham nghị viện ngày hôm sau. Buổi họp chủ trì bởi Cambaceres và Eugene – con riêng của Josephine, đọc lên nguyên vọng của gia đình mình, muốn rằng “người khai sinh ra triều đại thứ tư xứng đáng được hưởng tuổi già bên cạnh những con cháu trực hệ của mình”. Không có tranh luận, với 76 phiếu thuận, bảy phiếu chống và bốn phiếu trắng, văn kiện được thông qua. Cùng ngày, Josephine rời điện Tuileries.
Lựa chọn số một của ông là công chúa Nga, điều này giúp ông củng cố mối quan hệ đồng minh Pháp-Nga và chống lại Anh. Cambaceres cũng thiên về phương án này, nhưng xét thấy Alexander tỏ vẻ khó khăn nên họ đồng ý với Talleyrand và những người khác rằng công chúa Áo, hậu duệ của Louis XIV và Karl V và cũng danh giá không kém, là lựa chọn tốt nhất cho vị trí Hoàng hậu đang khuyết.
Cuộc hôn nhân được kết luận bởi Talleyrand và Metternich (cũng là người đã nỗ lực xúc tiến cuộc hôn nhân này) rằng sẽ giúp khiến tham vọng bá quyền của Napoleon biến mất. Bộ trưởng Ngoại giao Áo đã ủy quyền Thân vương Karl von Schwarzenberg – đại sứ của mình ở Paris, được phép chấp nhận lời cầu hôn nếu được đề nghị, và một tuần sau đó tại Fontainebleau, Phó vương Ý – Eugene, đã thay mặt Napoleon hỏi cưới công chúa nước Áo. Hôn ước được soạn ngay hôm sau, lấy mẫu từ hôn ước giữa Louis XVI với Marie-Antoinette.
<i>Mariage de Napoléon Ier et de Marie-Louise của Georges Rouget</i>
Mariage de Napoléon Ier et de Marie-Louise của Georges Rouget
<i>Klemens Wenzel Lothar von Metternich</i>
Klemens Wenzel Lothar von Metternich
Trong buổi yến mừng đám cưới, Matternich - Bộ trưởng Ngoại giao Áo đã nâng ly:
Mừng vua La Mã
Tước hiệu Vua La Mã là danh hiệu truyền thống thuộc về người kế thừa ngôi báu của Thánh chế La Mã, câu nói đầy ẩn ý cho thấy sự ra đời của một vị vua La Mã sẽ đánh dấu nền hòa bình mà Châu Âu đã trông chờ bấy lâu, mà còn ngầm khẳng định nhà Habsburg đã trao lại đế quyền cho hoàng đế đích thực của Châu Âu, khẳng định mối thù địch giữa hai nhà giờ đã chỉ còn là quá khứ. Khi Hoàng hậu mang thai, tất thảy mọi người đã bắt đầu cầu nguyện cho hòa bình.
Hoàng hậu lâm bồn tối 19 tháng 3 năm 1811, toàn bộ triều thần đều đã tề tựu ở điện Tuileries. Khoảng 8 giờ sáng thì đứa trẻ chào đời. “Hãy chứng kiến vị vua của La Mã đây!”, ông tuyên bố.
<i>"Sự ra đời của Vua Rome, thành quả quý giá của một cuộc hôn nhân cao quý"</i>
"Sự ra đời của Vua Rome, thành quả quý giá của một cuộc hôn nhân cao quý"
<i>"Hãy chứng kiến vị vua của La Mã đây!"</i>
"Hãy chứng kiến vị vua của La Mã đây!"
Đối với nhiều người, việc một nền hòa bình kiểu Pháp (pax gallica) dường như đã được số phận sắp đặt. Giờ đây, Đế quốc Pháp với 130 tỉnh trải dài từ Amsterdam đến Roma, thống trị 40 triệu dân trong tổng 170 triệu người Châu Âu, và đế quốc rộng lớn ấy đã có cả Hoàng tử sẵn sàng để kế vị bất kì lúc nào. Chính Napoleon cũng đã khẳng định sự thật này:
Đây là lúc bắt đầu cái cực điểm huy hoàng nhất trong triều đại trị vì của trẫm
Hôn lễ với người Áo và có được người kế vị đã phần nào thực hiện được hai mục đích trung tâm của Napoleon: Có được con trai có dòng dõi tôn thất (phần nào cũng giúp ông cũng như con mình bước vào hàng ngũ của các Ceasar thực thụ), và giúp cho quan hệ giữa ông và Áo trở nên bền chặt (ngày Marie-Louise đến Pháp, Napoleon đã cho gỡ các bức bích họa chiến thắng của ông trước Áo trong cung điện). Với việc quan hệ Pháp-Áo được gắn kết bởi cuộc hôn nhân chính trị này, Napoleon không chỉ đảm bảo bản thân mình là một phần trong đại gia đình hoàng gia Châu Âu, mà còn củng cố việc chấm dứt khả năng các quốc gia này tham chiến trong cuộc chiến ủy nhiệm chống lại ông do Anh khởi xướng.
Tuy nhiên, mọi thành quả mà nước Pháp đã gặt hái được, phần lớn đều nhờ vào những chiến thắng quân sự của Napoleon. Một nền hòa bình cho một thứ xây dựng nên từ chiến tranh có vẻ sẽ không tồn tại được quá lâu.

2. NHỮNG VẾT NỨT

<i>William Pitt và Napoleon xâu xé miến bánh thế giới</i>
William Pitt và Napoleon xâu xé miến bánh thế giới
Nhìn từ bên ngoài, đế chế của Napoleon là cường quốc mạnh nhất lúc bấy giờ, tuy vậy thế lực này ở các thuộc địa lại đang teo tóp dần. Việc Pháp để mất các thuộc địa cuối cùng vào tay Anh như La Petite Terre năm 1808, La Desirade, Marie-Galante, Guyana, Saint-Louis, Santo Domingo,… hay Mauritius, Tamatave và vùng Seychelles năm 1811, đã cho thấy thế lực của Pháp ở ngoài đế quốc dần tuột dốc tới mức nào. Mặt trời Austerlitz cũng chẳng thể nào che mờ được thảm họa ở Trafalgar, hạm đội Pháp gần như không thể gượng dậy từ thất bại đã cách đó nửa thập kỉ. Napoleon đã lên kế hoạch đóng 100 tàu chiến, nhưng trong quá trình đóng một cách gấp rút, họ lại đóng bằng gỗ kém chất lượng, đại bác trên tàu cũng là hạng xoàng và dễ phát nổ đến độ hải quân Anh cũng chẳng mặn mà trưng dụng lại chúng. Dù vẫn có những đợt cướp phá tàu buôn Anh, nhưng số lượng cướp phá được cũng chỉ là một phần nhỏ trong tổng số lượng sản phẩm mà Anh vận chuyển được, con số này còn tiếp tục giảm với việc Hải quân hoàng gia Anh trực tiếp hộ tống các tàu buôn.
Vấn đề kinh tế lúc này của đế chế cũng ngày càng lớn. Ngân sách của ông từ 859 triệu franc năm 1810 đã đội lên 1.103 triệu franc trong năm tiếp theo. Chi phí quân đội tăng từ 377 triệu lên 500 triệu. Tiền bạc cho các dự án lớn của đế chế và chính nhu cầu của ông ngày một tăng. Triều đình lấy ra tổng thu của chính phủ một phần lớn hơn so với triều vua Louis XVI. Ông cho nâng và đặt thêm thuế, tiết kiệm bằng cách loại bỏ những lãng phí do ông tự nghĩ ra. Dù có cả một cuốn sổ tay ghi chép chi tiết những gì ông thông qua về chi tiêu thì ngân sách và những khoản chi được công khai cũng hư cấu và không đáng tin.
<i>Trận Wagram ngày 7 tháng 7 năm 1809</i>
Trận Wagram ngày 7 tháng 7 năm 1809
<i>Trận Talavera, ngày 28 tháng 7 năm 1809. Một phần của Cuộc chiến tranh Bán đảo</i>
Trận Talavera, ngày 28 tháng 7 năm 1809. Một phần của Cuộc chiến tranh Bán đảo
Việc giữ một quân đội thường trực lớn cũng là một vấn đề. Trước kia, chiến tranh tự mình chi trả cho chính nó thông qua những hiệp ước mà Napoleon kí với các nước bại trận. Tại Wagram, số tiền bồi thường của Áo buộc phải trả là lớn hơn nhiều so với trước, bởi lẽ chi phí bỏ ra cho chiến dịch ngày một đắt đỏ hơn. Và dĩ nhiên, Napoleon còn một cuộc phiêu lưu vẫn còn dang dở – Cuộc chiến tranh Bán đảo. Những gì đang xảy ra ở Iberia cũng đắt đỏ không kém, nhưng cuộc chiến vẫn chưa thể chấp dứt. Với sự can thiệp của Anh ở Bồ Đào Nha và lan dần sang Tây Ban Nha, cũng như cuộc chiến giờ đang tiến tới một cuộc chiến tranh tiêu hao cho cả hai bên. Về kinh tế lẫn quân sự thì bán đảo Iberia đang là cái hố sâu không thấy lối ra. Napoleon đã vay tiền từ Đại công quốc Warszawa để dùng cho cuộc chiến ở Tây Ban Nha, ông cho phép cướp phá những gì có thể bán và bán càng nhiều càng tốt, trong đó có các bất động sản của Giáo hội. Một phần nhằm giảm tải phí tổn và nhân mạng của người Pháp tại Tây Ban Nha, ông cho đến đây các đơn vị chiến đấu ngoại quốc như Westfalen, Hà Lan, Ba Lan và Ý. Cái chết của lính ngoại quốc không phải người Pháp rõ ràng không ảnh hưởng mấy đến công luận Pháp và chi phí vũ trang cho họ cũng là do chính quốc của họ tự chi trả, nhưng càng chiến tranh, ngân sách của Napoleon chỉ ngày càng tăng.
Cuộc chiến tranh kinh tế đối với Anh nhìn chung lại đang có hiệu quả nếu ta xét mục đích của việc phong tỏa đảo Anh với lục địa. Napoleon xem những gì có trong “Sắc lệnh Berlin” năm 1806 là giải pháp cho vấn đề nước Anh và bắt các nước đồng mình phải thực hiện, nhưng nó đồng thời cũng gây ảnh hưởng kinh tế nặng nề cho không chỉ cho Anh mà còn là các quốc gia như Nga, Tây Ban Nha, Phổ,… và chính Pháp. Ông không chỉ buộc các quốc gia châu Âu và chính mình vào một thế y như tự sát về mặt kinh tế, mà còn đẩy ông vào một thế phải đảm bảo sự kiểm soát của chính mình trên toàn bộ các cảng biển ở khắp các quốc gia, chưa kể việc Anh tuồn hàng bí mật và các quốc gia đồng minh của Napoleon cũng bí mật cho phép phần nào những hoạt động chuôi này. Kinh tế Pháp cũng gặp khó khăn: mâu dịch đường biển dần lụi tàn, tàu Pháp nằm mục ở cảng, nguồn thu hải quan của ngân khố cũng mất đi,… nhưng vấn đề quan trọng, Anh cũng đã thấm đòn.
<i>Tiêu hủy hàng hóa Anh</i>
Tiêu hủy hàng hóa Anh
Nhưng khi Anh đang chịu sức nặng thật sự từ chính sách phong tỏa, việc Pháp can thiệp vào nội bộ Tây Ban Nha đã cho Anh một cái phao cứu sinh: Các thuộc địa của Tây Ban Nha ở Trung và Nam Mỹ nhân cơ hội này để vùng lên giành độc lập, sau đó mở cảng biển để thông thương với hàng hóa Anh. “Cái đập” phong tỏa kinh tế giờ đây đã có những vết rạn đầu tiên, nhưng những đồng minh của Pháp cũng không thể ngờ một ngày chính Pháp lại làm điều đi ngược lại những gì mình đã nói trước đó.  Dưới áp lực phải tìm kiếm nguồn thu mới, năm 1809, Napoleon cho phép các thương nhân mua giấy phép thông thương với Anh, không lâu sau Anh cũng làm điều tương tự bởi Anh cần ngũ cốc. Cuối năm 1809, Pháp đã xuất khẩu rượu brandy, trái cây, rau củ, muối và ngô sang Anh, đổi lại nhập về gỗ, gai dầu, sắt, kí ninh và vải.

3. VẤN ĐỀ VỚI NGƯỜI NGA

Sa hoàng trong văn phòng ở Cung điện mùa Đông - St.Petersburg
Sa hoàng trong văn phòng ở Cung điện mùa Đông - St.Petersburg
Sau khi li hôn với Josephine, mục tiêu ban đầu ông nhắm đến là kết giao với Sa hoàng Nga Alexander, nhưng trớ trêu chính Sa hoàng cũng chẳng mặn mà việc cũng cố mối quan hệ đồng minh, huống chi cho phép Napoleon cưới một cô em gái mình. Chưa kể, Pavel I – cha Alexander, trước khi băng hà đã ban một sắc lệnh ukaz cho phép vợ mình quyết định hôn sự của các cô con gái. Thái hậu Nga Mariya Fyodorovna cũng chẳng ưa gì Bonaparte, nếu không muốn nói là rất ghét. Ngay khi nghe tin Napoleon có ý hỏi cưới, bà đã hối thúc con gái lớn của mình lấy thân vương Georg xứ Holstein – Oldenburg. Vào cuối tháng 11 năm 1809, Napoleon cũng ra chỉ thị cho Caulaincourt đến Saint Petersburg hỏi cưới một người em gái khác của Alexander, người mà 2 tháng nữa mới tới sinh nhật 15 tuổi. Alexander tỏ vẻ hài lòng nhưng lại không quyết, điều này vẫn kéo dài đến đầu tháng 2 năm sau.
Khi Sa hoàng Alexander gửi thư hồi đáp về vấn đề Thái hậu Nga không cho phép Nữ Đại Công tước Anne kết hôn sớm và ít nhất phải mất 2 năm nữa, dù ông mong cả hai nhà sẽ quy về một mối thì tin tức lễ kết hôn của Napoleon và Marie-Louis dường như đã khiến Alexander có phần bẽ mặt trước công luận trong nước (chủ đích lá thư gửi đi của Sa hoàng thực chất muốn “lịch sự từ chối” và làm chính Napoleon mất mặt). Điều này cũng khiến Nga nghi ngờ khả năng về một thỏa thuận ngầm giữa Pháp và Áo trong ván bài tay đôi này của Napoleon.
Vấn đề về vùng đệm của hai nước cũng là vấn đề nan giải. Dù cả hai đã cùng đồng thuận ở Tilsit về việc xác lập một vùng đệm giữa hai quốc gia lẫn phạm vi ảnh hưởng, nhưng việc Napoleon cho thành lập các quốc gia vệ tinh khiến Nga có sự lo lắng, đặc biệt trong đó có vấn đề về Ba Lan. Sau ba lần phân chia Ba Lan, Nga đang nắm 463.000 km  vuông với dân số ước tính đến bảy triệu người, và rõ ràng khi Napoleon cho thành lập cái gọi là Đại công quốc Warszawa năm 1807, điều này chẳng khắc gì khiến Nga và những người Ba Lan có tâm lí phục quốc hay không cảm thầy ông đang nhen nhóm cho một chính thể tương lai của người Ba Lan. Đối với Nga, đây chẳng khác gì đe dọa buộc họ phải trao trả một phần, thậm chí là toàn bộ lãnh thổ Ba Lan mà họ đã giành được.
<i>Kỵ binh đánh giáo Ba Lan thuộc </i><a href="https://en.wikipedia.org/wiki/Legion_of_the_Vistula"><i>Quân đoàn Vistula</i></a><i> đang tuần tra</i>
Kỵ binh đánh giáo Ba Lan thuộc Quân đoàn Vistula đang tuần tra
Napoleon có muốn Ba Lan phục quốc hay không? Câu trả lời không, tuy nhiên ông không từ chối việc có số lượng lớn quân Ba Lan gia nhập quân đội Pháp (số lớn họ sẽ được điều động đến chiến trường Tây Ban Nha). Tất cả những phát ngôn của ông về việc khôi phục Ba Lan đều xuất hiện về sau này, để giúp ông giữ chân lại người Ba Lan hoặc để cứu vớt danh tiếng của mình, cũng có thể ông tin rằng chính thể Ba Lan đã chết và người Ba Lan cũng chẳng thể làm cho chính thể đó sống lại. Chưa kể, ông có lẽ rõ biết rằng việc công khai phục quốc cho dân Ba Lan chẳng khác nào tự mình đạp đổ hệ thống phong tỏa lục địa và đưa Nga vào thế phải chiến đấu. Sự mập mờ này trở nên rõ hơn khi Sa hoàng Alexander đề nghị ông kí một văn bản hứa sẽ không cho phép khôi phục lại Ba Lan, và chống lại họ nếu họ làm điều đó. Napoleon đã lấp lửng giữa việc cam kết chống việc khôi phục nhà nước này, nhưng không thể đảm bảo ngăn chặn nó, ông không muốn bản thân bị dính vào một sợi dây trói buộc như thế này.
Ngày 30 tháng 6 năm 1810, một bức thư được gửi đến Napoleon từ Saint Petersburg với nội dung là hàng loạt lời than phiền và yêu cầu sự đồng ý về vấn đề Ba Lan, bóng gió cả về khả năng Nga sẽ không thể giữ được thế phong tỏa trước người Anh nếu ông không ký hiệp định này. Tất nhiên Napoleon nổi điên và triệu đại sứ Nga, Thân vương Kurakin vào để trút giận. Chính Kurakin cũng là bằng chứng sống cho mối quan hệ nửa vời giữa Nga và Pháp, một kẻ khoa trương lố bịch bất tài, “le prince diamant” (ông hoàng hột xoàn), cho thấy sự xem trọng của Sa hoàng đối với mối quan hệ này.
Nước Nga hỏi bằng giọng điệu này là muốn gì đây? - Napoleon hỏi.
Nga muốn chiến tranh à? Sao cứ than phiền mãi vậy? Sao lại nói những lời nghi kị mích lòng như thế này? Nếu trẫm muốn khôi phục Ba Lan, trẫm đã nói thẳng như vậy rồi, trẫm chẳng cần phải rút quân ra khỏi Đức. Nga đang định chuẩn bị tinh thần sẵn cho trẫm trước khi phản bội trẫm à? Trẫm sẽ tuyên chiến với Nga ngay vào cái ngày Nga lập lại hòa bình với Anh.
Tuy là đe dọa như vậy, chính Napoleon cũng chẳng hề muốn có một cuộc chiến với người Nga, ông chẳng cần gì một cuộc xâm lược như vậy. Tuy nhiên Alexander lại xem chiến tranh với Bonaparte là điều không thể tránh khỏi, người Nga cũng chẳng ưa gì Napoleon lẫn người Ba Lan. Việc Thụy Điển có vua mới là người Pháp cũng bị phản ứng dữ dội. Và tất cả những cảm xúc này còn được đẩy lên cao trào bởi những khó khăn mà Hệ thống Phong tỏa Lục địa mang lại. Công nghiệp Nga vốn hạn chế, phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, các con đường vận chuyển đều cồng kềnh và khó buôn lậu. Đồng rúp giai đoạn 1808 - 1811 mất 50% giá trị, việc này biến giá nhập khẩu tăng cao. Nợ công quốc gia giai đoạn 1808 - 1810 lên đến 1.300%. Xuất khẩu giai đoạn 1806 - 1812 giảm 40%. Giá đường và cà phê giai đoạn 1802 - 1811 tăng 500%. Cho nên nếu nói kinh tế Pháp gặp khó khăn do thực hiện phong tỏa, thì Nga đang rơi vào hố sâu của khủng hoảng kinh tế toàn diện. Điều này khiến Alexander và sự nhún nhường của ông trở thành đề tài chính cho sự chỉ trích dâng cao của người dân Nga, và cách để đẩy lùi những chỉ trích ấy là ông phải tách khỏi Napoleon. Một trong những hành động đầu cho sự chuẩn bị này là việc ông tiến hành cơ cấu, tái thiết và hiện đại hóa quân đội, cũng như dụ dỗ người Ba Lan sẽ được tự trị dưới sự bảo hộ của Nga. Thân vương Sergei Volkonsy nhớ lại:
Trả thù rửa hận là thứ cảm xúc duy nhất đang bùng cháy trong mỗi trái tim người Nga

4. VỠ ĐÊ

Mùa hè năm 1810, Anh mất mùa, trùng hợp với giai đoạn đồng sterling mất giá. Cơ hội cho một cú đánh lớn đã đến và Napoleon không thể bỏ qua, ông cho siết chặt hệ thống phong tỏa bằng cách tăng thuế nhập khẩu. Ông muốn buộc người Anh phải ngồi vào bàn đàm phán theo những điều kiện của mình. Tháng 10 năm 1810, Caulaincourt theo chỉ thị yêu cầu Nga cũng tăng thuế nhập khẩu. Đối với Nga, thòng lọng lúc này thực chất đang treo lên cổ họ thay vì Anh, điều này buộc Alexander không còn cách nào khác ngoài việc bất tuân hệ thống phong tỏa lục địa. Cuối tháng 12 ông mở cảng cho phép tàu Hoa Kỳ vào, đánh thuế hàng hóa đường bộ của Pháp. Hàng hóa Anh cũng đã tràn vào Đức qua Nga. “Con đê” phong tỏa giờ đã vỡ, và hàng hóa Anh đang tràn vào Châu Âu.
Đáp trả và cũng như nhằm siết chặt mọi cửa ngõ giao thương, Napoleon cho sáp nhập các cảng trong đó có Công quốc Oldenburg của cha vợ Alexander, điều này khiến ông nổi giận. Ông nói với em gái Ekaterina:
Máu sẽ phải chảy lần nữa
Người Nga đã chuẩn bị cho cuộc chiến vào đầu tháng 1 năm 1811, Tướng Barclay de Tolly đã vạch ra kế hoạch đánh chiếm Đại công quốc Warszawa và tiến vào Phổ, trong khi trong tay Alexander đã có sẵn 280.000 quân sẵn sàng. Quân Davout đóng ở Bắc Đức đã được chỉ thị bởi Napoleon đặt vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Tuy vậy Napoleon không muốn có chiến tranh với Nga. Ông nói với Thân vương Shuvalov ở Saint-Cloud tháng 5 năm ấy:
Trẫm không có ý định gây chiến với Nga, đó sẽ là một tội ác nếu trẫm làm, vì như thế là trẫm tạo nên một cuộc chiến không để làm gì, và cảm ơn Chúa, trẫm vẫn chưa đánh mất cái đầu mình, trẫm chưa điên. 
Ông cũng tuyên bố bản thân chẳng quan tâm nhiều tới việc phục quốc Ba Lan khi nói với Chernyshev, đại tá được Sa hoàng phái tới Paris mang thư cho ông. Tuy vậy những tuyên bố là chưa đủ.
Napoleon đã xem thường quyết tâm của Alexander, cho rằng Sa hoàng chỉ tỏ vẻ cam đảm, chứ thật ra chỉ là một kẻ “sai lạc và yếu đuối”. Ông xem việc Nga từ bỏ Hệ thống Phong tỏa là một sự phản bội, và tin rằng Nga chỉ đang muốn dùng vấn đề Ba Lan và thương mại để phá vỡ liên minh và tiến gần về phía Anh, cũng như sẽ đánh chiếm Công quốc Warszawa ngay khi có cơ hội. Ông cũng chẳng tin rằng xã hội Nga sẽ cho phép một cuộc chiến xảy ra chỉ vì cái tôi của Alexander. Lựa chọn khả dĩ, như Caulaincourt chỉ ra, là trả lại một phần hoặc tốt nhất là toàn bộ Công quốc Warszawa cho Nga, hoặc là phải chiến đấu. Napoleon muốn giữ cái tình hưu nghị đồng minh, nhưng không dám trả một cái giá cần thiết cho việc này.
Khi nghiên cứu lại các sự kiện với Nga sau Tilsit, Napoleon đã đúc kết rằng Pháp chẳng muốn gì hơn ở Nga ngoài việc là đồng minh chống lại Anh, nhưng do không thể mua chúng bằng việc phản bội Ba Lan, Pháp phải chuẩn bị cho cuộc chiến để tránh việc Nga gây chiến. Napoleon đã không cố hiểu tình hình mà Alexander đang gặp phải bởi những chính sách của mình, cũng như không tin vào sự nhượng bộ chiến lược, bản thân Napoleon cũng đã không muốn đối diện với sự thật Nga là một đế quốc trải rộng và được ưu đãi về vị trí quân sự chiến lược, trong khi chính Pháp đang phải mắc một chân trong vũng lầy ở bán đảo Iberia, để ngõ khả năng bị đánh úp bởi Anh trên toàn bộ đường bờ biển trải rộng. Chính ông giờ đã chẳng còn cách nào tốt hơn ngoài một hành động rút lui chiến thuật, nhưng bản thân ông cũng chẳng tin vào cách đó sẽ giải quyết được gì.
Cuộc chiến giờ chỉ còn là vấn đề thời gian