CUỘC CHIẾN TRANH NGA – PHÁP (1812) PHẦN II: RUBICON
Và như thế, mọi thứ đã được chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn. Phần II sẽ nói về sự chuẩn bị của Napoleon và người Nga cũng như cho đến trước trận Borodino

Quân Pháp vượt sông Niemen
1. CHUẨN BỊ CHO CUỘC CHIẾN
Đến đầu năm 1812, Napoleon đã thực sự nghiêm túc và chắc chắn đối với vấn đề xâm lược Nga. Cuộc chiến này giờ đây là cơ hội để ông lấp đầy ngân khố, như ông đã từng làm trước kia, theo Mollien. Và cũng có lẽ đây là một sự thúc dục đối với chính Napoleon phải giải quyết vấn đề này trước khi tài năng quân sự và sức chịu đựng của bản thân suy giảm dần. Ông nói với tướng Vandamme:
Không bằng cách này thì cũng cách khác, trẫm muốn giải quyết việc này, vì cả hai chúng ta đều già đi, Vandamme thân mến, và trẫm không muốn khi tuổi già đến, trẫm ở vào một vị trí mà người ta có thể đá sau lưng trẫm, nên trẫm quyết tâm sẽ đưa việc này đến hồi kết, không theo cách này thì cũng cách khác.
Napoleon đã cho tập hợp một lực lượng quân sự lớn nhất thế giới tính đến thời điểm đó. Tuy vậy, ông nhận biết về tình hình phản chiến trong dân chúng Pháp đang ngày càng cao, trong khi chiến tranh Bán đảo đang khiến cho hơn 200.000 quân Pháp phải mắc kẹt ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cho nên ông đã yêu cầu các quốc gia đồng minh của mình không những phải chấp nhận chi trả chi phí chiến tranh mà còn là cung cấp quân lính cho cuộc xâm lược Nga. Do đó, số lượng quân Pháp trong quân đội kém xa so với số lượng binh sĩ Ba Lan, Đức, Áo, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Croatia. Trong số 400.000 quân nòng cốt cho lực xâm lược ban đầu, thì không dưới 2/3 quân số không phải người Pháp, và họ theo đuổi những lợi ích riêng, trung thành với những nhà vua riêng và những điều kiện riêng.
“Quân cốt tinh, không cốt đông”, tuy vậy bấy giờ quân Pháp lại có phần ngược lại. Quân số khổng lồ đã ảnh hưởng đến chất lượng quân đội. Một cuộc thanh tra binh chủng kỵ binh vào tháng 3 năm 1812 cho thấy 1/3 số ngựa không đủ khỏe để trở người và cũng chỉ có khoảng từng ấy binh lính đủ thể lực để chiến đấu trong hầu hết đơn vị. Napoleon xem nhẹ vấn đề đề này:
Khi trẫm đưa 40.000 người lên lưng ngựa thì trẫm biết rõ rằng trẫm không thể mong đợi có nhiều kỵ binh giỏi, nhưng cái trẫm đang làm là gây ảnh hưởng lên tinh thần quân địch. Thông qua tình báo, đồn đại hoặc qua báo chí, địch sẽ biết rằng trẫm có 40.000 kỵ binh [...]

Quân Pháp đóng tại Ý năm 1796. Trong năm đó, 38.000 Pháp đóng dưới chân dãy Alps do Napoleon chỉ huy đã dành thắng lợi trước 38.000 quân Áo và 25.000 quân đồng minh.
Quân Pháp hiện giờ cũng không còn như những ngày Napoleon còn chỉ huy họ khi còn ở chiến dịch Ý, nơi ông và những người lính vượt dãy Alps của mình phải sống trong điều kiện thiếu thốn về vật chất và sự thừa mứa gần như chỉ có trong mơ. Giờ đây, lối sống xa hoa và phung phí đang len lỏi vào trong chính từng doanh trại quân đội và trong từng doanh trại lại phình lên những miệng ăn thừa thải và những món đồ cao sang, trong khi tinh thần và nhiệt huyết cách mạng những năm 1790 đầu 1800 lại đang dần nguội lạnh.
Các nguyên soái của chiến dịch - những người sẽ là chỉ huy các quân đoàn thiện chiến của Đại quân, cũng không khá hơn. Phần lớn họ và các tướng lĩnh đều được ông ban bổng lộc, đất đai, có người được phong đến chức tước và cả vua, họ có vợ con, lâu đài cung điện, liệu họ có dám bỏ thiên đường để đến cái nơi địa ngục xa lắc ở phía Đông không? Nhiều người đã trung niên, họ biết có thể mất những gì mình đang có và gia đình họ sẽ lâm vào cảnh hiểm nghèo. Những nguyên soái và tướng lĩnh thân cận của Napoleon cũng không muốn chiến tranh bởi vấn đề từ khoảng cách địa lí, địa hình, bản chất quân địch, và vì mục đích cuộc chiến cũng không lợi lộc gì thêm khi thắng trận. Tư lệnh quân Ba Lan – Poniatowski, cũng khuyên Napoleon đừng xâm lược Nga.
Cuộc phiêu lưu này đồng thời cũng đặt ra vấn đề khổng lồ cho hậu cần. Napoleon đã nghiên cứu và nghiền ngẫm về khí hậu, đặc điểm chiến trường, các tấm bản đồ, tính toán khoảng cách hành quân và tưởng tượng những kịch bản hành quân có thể. Niemen ở biên giới với Nga sẽ là điểm bắt đầu, nó cách Paris 1.500km, cách 650km và 950km với Moscow và Saint Petersburg. Đại Tập đoàn quân sẽ phải băng qua một đoạn đường dài, qua một vùng nông thôn rất nghèo, thưa dân, đường thô sơ, nhiều sông, rừng dễ lạc và ít tài nguyên,… khiến việc tích trữ toàn bộ quân nhu cần thiết là điều bắt buộc.
Ngày 24 tháng 4, sau khi nhận lá thư của Sa hoàng từ tay Kurakin khẳng định rằng sẽ chẳng có đàm phán gì hết nếu ông không rút hết quân ở bờ Tây sông Rhine về (chẳng khác gì tuyên chiến), Napoleon không thể chờ đợi thêm, ông phải chỉ huy các quân đoàn của mình. Tuy vậy ông phải củng cố quốc phòng và hệ thống điều hành nước Pháp trước. Ông đưa ra một đề nghị hòa bình với Anh về việc cùng rút quân và đảm bảo Joseph vẫn tiếp tục cai trị Tây Ban Nha, tương tự là những nhà cai trị cũ của người Bồ. Nhưng ông không tin vào khả năng thành công của việc này, do đó duyên hải Pháp được củng cố phòng thủ, tổ chức vệ binh quốc gia 100.000 quân sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lại một số công trình công cộng. Ông còn đồng thời răn đe về bổn phận của từng người bằng cách cho xét xử lại bại tướng đã đầu hàng ở Bailén là Pierre Dupont và tuyên ông này bản án nặng hơn.
Napoleon chia Đại quân thành các đơn vị quân trung tâm và các lực lượng hỗ trợ. Napoleon sẽ chỉ huy đội quân chính bao gồm khoảng 227.000 quân (cũng là lực lượng trung thành và mạnh nhất trong Đại quân). Cánh phải của ông là Eugene chỉ huy khoảng 80.000 quân. Cánh phải tại Grondo (Hronda) có Jérôme với 76.000 quân. Phía Bắc có quân đoàn X của Thống chế Mcdonald với khoảng 40.000 quân Phổ. Sườn Phía Nam do 30.000 quân Áo của Karl Philipp zu Schwarzenberg. Có thêm 100.000 quân dự bị, bao gồm quân đoàn IX với khoảng 33.000 quân của Thống chế Victor. Thống chế Bethier làm tham mưu trưởng chiến dịch.
Quân Nga được chia thành ba tập đoàn quân, đóng ở các vị trí vừa có thể bảo vệ Vilna vừa có thể tham gia tấn công. Tập đoàn quân số Một của Barclay de Tolly chỉ huy, quân số khoảng 160.000 quân, Tập đoàn quân số Hai có hơn 60.000 quân do Bagration chỉ huy, có thể tham gia hỗ trợ Barclay tiến quân bằng cách đánh tập kích cánh của địch, hoặc hỗ trợ phòng thủ cũng bằng cách đe dọa cánh địch. 60.000 quân còn lại của Tập đoàn quân số Ba do tướng Tormasov chỉ huy đóng ở phía Nam đầm lầy Pripet, canh gác cửa ngõ vào Ukraine.
Napoleon đề xuất đánh Barclay và Tập đoàn quân số Một trong lúc Eugene và St Cyr tiến vào giữa Barclay và Bagration. Ở phía Nam, Jérôme sẽ tấn công bằng ba quân đoàn khác. Cuộc tấn công sẽ do Murat dẫn đầu cùng với một lượng lớn kỵ binh, bốn sư đoàn phá thành. Phía Bắc sẽ do Mcdonald tiến vào Riga, Oudinot hỗ trợ. Phía Nam Pripet, quân đoàn Áo sẽ theo dõi Tormasov. “Hai cánh của quân đội chúng ta nay lại được giao phó cho hai nước sẽ hưởng lợi nhất nếu cuộc chiến phiêu lưu này thất bại”, một sĩ quan trong ban tham mưu của Berthier nhận xét.
Sức mạnh thật sự của Đại quân thật sự không thể xác định được. Trên lí thuyết Đại quân có 590.687 quân, 157.878 ngựa, cùng 90.000 lính ở các vùng Ba Lan và Đức. Tuy nhiên, ngày 14 tháng 6, Napoleon ban thông tư yêu cầu các tư lệnh quân đoàn có trách nhiệm phải báo cáo con số chân thực số người, ngựa có khả năng chiến lẫn lẫn số bị bệnh, đào ngũ, cũng như số đã chết hoặc bị thương. Khi được báo cáo con số quá nhỏ so với kì vọng, ông nổi điên, đặc biệt vì ông không thể lấy tổn thất chiến trường để giải thích cho những con số này, tức các chỉ huy đã giấu số liệu. “Ông bị đánh lừa bằng một cách quá quắt nhất”, Tướng Berthezène viết:
Từ Thống chế cho đến đại úy, cứ như thể ai cũng hùa nhau che giấu sự thật không cho ông biết và tuy ngầm ngầm nhưng cái âm mưu này là có thật; họ làm như vậy cũng bởi lợi ích riêng của họ có liên hệ với nhau.
Cũng theo ông, sức mạnh thật của Đại quân chỉ không hơn 235.000 quân. Nhưng con số này cũng lớn hơn nhiều quân số trước kia Napoleon đã thống lĩnh, đặt ra yêu cầu về hậu cần lẫn một chiến thắng nhanh gọn. Mục tiêu của ông đó là tiêu diệt được Tập đoàn quân số Một của Barclay càng nhanh càng tốt, từ đó không chỉ đánh chiếm được Vilna, mà còn có thể phối hợp với lực lượng của em trai ông - Jérôme, đánh xuống phía Nam để tạo thành gọng kiềm siết chết Tập đoàn quân số Hai của Bagration.
2. VƯỢT SÔNG NIEMEN
Rạng sáng ngày 23 tháng 6, khi đã đến tiền đồn xa nhất, Napoleon ăn mặc như một lính thương kỵ , đóng giả lính đi tuần cùng các sĩ quan tham mưu để xem xét điểm vượt trên sông Niemen. Ông sau đó bị một con thỏ rừng làm ngã ngựa. Không nói, không nguyền rủa, ông chỉ im lặng và trèo lại lên ngựa, Berthier và Caulaincourt cũng như những người đi cùng, cho rằng đó là điểm gở, và họ không nên vượt sông.
Tuy vậy lúc 3 giờ sáng ngày 24 tháng 6 năm 1812, trên lưng con ngựa Friedland, ông đã đến một chiếc gò nhìn được toàn cảnh để quan sát. Khi mặt trời mọc, ông có thể nhìn thấy 3 chiếc cầu phao đã bắc qua sông, một quân đoàn đã vào vị trí phòng thủ ở bờ bên kia. Ông hôm nay có vẻ có tâm trạng tốt, ngâm nga những bài ca hành quân trong khi tay phải cầm một cái ống nhòm, tay trái chắp ra sau lưng. Quân Pháp vượt sông như đang diễu binh, theo một người quan sát miêu tả là “cảnh tượng phi thường nhất, hùng vĩ nhất, oai nghiêm nhất mà người ta có thể tưởng tượng, cảnh tượng có thể làm ngây ngất một con người đi chinh phục ”.

Đồi Napoleon - nơi Napoleon quan sát cuộc vượt sông
“Vive l’Empereur! Đã vượt được sông Rubicon rồi ”, mọt đại úy lính phóng lựu của quân Cận vệ Hoàng Gia viết trong nhật ký khi đóng ở ngoại thành Kowno (Kaunas) ngày 26 tháng 6. Số lượng quân khổng lồ khiến cuộc vượt sông mất tận 5 ngày. Bốn ngày sau, Napoleon tiến vào Vilna, lúc này người Nga đã rút hết khỏi thành phố. Khi ông nghỉ trong cung điện của vị cựu tổng giám mục, một cơn bão lớn đã quét qua vùng phía Nam và Tây của thành phố. Khi cả người lẫn ngựa, vốn đã kiệt sức bởi nhiệt độ cũng như thức ăn trong suốt nhiều tuần, đột nhiên phải hứng chịu một trận mưa lạnh xối xả cả đêm, sáng hôm sau người ta phát hiện cả một vùng đầy rẫy xác người ngựa, còn pháo, xe thồ thì mắc kẹt trong những vũng lầy, những người còn sống thì cố kéo chúng ra. Ngựa của lực lượng pháo binh bị mất ¼, kỵ binh cũng bị tổn thất, nặng nhất là hậu cần. Quân Pháp – theo các ước tính dè dặt nhất, đã mất 50.000 ngựa đêm hôm đó. Nếu đó là những người Hy Lạp hay La Mã cổ, có lẽ giờ này họ đã bắt đầu quay trở về nhà.

Barclay de Tolly
Nhưng bỏ những vụ mê tín sang một bên, vấn đề là lí do gì khiến người Nga từ bỏ Vilna. Napoleon không hiểu nổi lí do vì sao quân Nga lại từ bỏ thành phố trong khi cách người Nga thể hiện cho thấy họ sẵn sàng bảo vệ Vilna, nhưng giờ lại nhổ trại và để lại nhiều kho lương thực mà họ đã tích trữ hàng tháng trời, điều này đối với Napoleon thật sự vô lí và ông cho rằng có nguy cơ địch sẽ phản công. Tuy nhiên, Barclay de Tolly, vị tướng tài và còn là Bộ trưởng chiến tranh lúc bấy giờ, không phải tổng tư lệnh của quân Nga trên danh nghĩa, Sa hoàng chưa cho ông quyền tổng tư lệnh, và tất nhiên như cái cách Alexander lảng vảng bên cạnh Kutuzov hồi còn ở Austerlitz thì Barclay cũng không phải là ngoại lệ. Với việc ông chẳng có một kế hoạch cố định và phải đối diện với số lượng quân Pháp đông đảo, Barclay chọn cách rút lui.
Giờ khi đã đánh chiếm được Vilna, Napoleon tin rằng ông sẽ bẫy được Bagration. Ông cho Thống chế Davout mang hai sư đoàn và Grouchy cầm quân đoàn kỵ binh của mình đánh cắt ngang đường rút quân của Bagration, điều này sẽ buộc Bagration phải đối diện với quân đoàn của Jérôme đang tiến quân và bị tiêu diệt. Nhưng quân đoàn của Jérôme đã xuất phát trễ và Bagration nhân cơ hội lui xuống phía Nam và tránh được gọng kìm của quân Pháp. Napoleon đã nhiếc mắng Jérôme, khiển trách Eugene và mắng Poniatowsky, bảo rằng quân họ và chính họ thiếu tinh thần, đồng thời khiển trách Davout vì không xử lí tốt tình hình. Ngày 16 tháng 7, Jérôme cùng vệ binh hoàng gia của mình quay về nhà. Tuy nhiên, lỗi về vấn đề không tiêu diệt được quân của Bagration rõ là cũng do ông khi bản thân ông đã quên không nói thời điểm hành quân cho Jérôme biết, và thế là Davout và Jérôme cũng bất hòa với nhau.

Hoạt động hậu cần lúc bấy giờ phần lớn không thể theo kịp tốc độ hành quân
Vấn đề hậu cần tiếp tục khiến cho cuộc chiến trở nên khó khăn hơn dù mới bắt đầu. Napoleon đã cho thiết lập các tuyến đường hậu cần lớn cho Đại quân, tuy nhiên đường xá xa xôi, khó khăn cho di chuyển, và lúc nào cũng có nguy cơ bị đánh úp, chưa kể tốc độ di chuyển của quân hậu cần trong thời kỳ này lại không thể nào tệ hơn. Với cách chiến đấu của Đại quân, và với việc Napoleon không thể giải quyết vấn đề với Nga trong 1 trận đánh duy nhất, hậu cần chắc chắn sẽ là mắc xích dễ bị phá hủy nhất của ông nếu cuộc chiến bị kéo dài.
Kỉ luật quân đội cũng mất dần, binh lính Pháp bắt đầu cướp phá nhà thờ, đốt phá nhà cửa, chiếm đoạt tài sản, làm nhục phụ nữ,… những vấn đề như hàng nghìn lính đào ngũ, lang thang tập trung thành các nhóm đi cướp phá, giết người, hãm hiếp phụ nữ, cấu kết với nông nô để nổi loạn cũng bắt đầu diễn ra thường xuyên hơn. “Hồi Attila đi qua trong thời kỳ man rợ cũng không gieo rắc nhiều kinh hoàng như thế này”, một sĩ quan Ba Lan nhận xét. Số lượng lính làm loạn quá đông, khiến việc áp chế quân kỉ lên những người này trở nên bất khả thi, nhưng kẻ đào ngũ bị bắt lại thì lại tìm cách để tiếp tục đào ngũ. Sĩ quan hay bưu kỵ cũng gặp nguy hiểm.
Trong những năm 1813 - 1815, họa sĩ Leopold Beyer đã vẽ một loạt 12 bức vẽ, mô tả chi tiết diện mạo thật của quân đội Pháp. Một vài bức vẽ trong số chúng có thể thấy ở đây:

Lính Pháp trên đường hành quân

Những binh lính lang thang

Binh lính Pháp trong quân phục rách rưới

Binh lính Pháp tìm thức ăn

Binh lính Pháp trở những lính bị thương của họ
3. RƯỢT ĐUỔI
Sau khi chiếm được Vilna không cần đổ máu, Napoleon dành hai tuần ở lại đây, củng cố trật tự, quân đội và các vấn đề khác, nhưng việc ông lãng phí 2 tuần này đã cho người Nga có cơ hội để rút lui một cách có trật tự tới khu trại được chuẩn bị sẵn công sự phòng thủ ở Drissa. Ông quyết định sẽ đưa quân ra đằng sau và vây quân Nga lại trong trại. Nhưng khi ông khởi hành thì quân Nga đã thay đổi kế hoạch, họ bỏ trại khiến ông đánh mất cơ hội.
Napoleon tiếp tục truy đuổi quân Nga, ông phấn chấn khi nhận tin Murat vừa đụng độ với quân Nga ở Ostrovno vào ngày 25 tháng 7. Hai ngày sau ông tiến đến cửa ngõ Vitebsk và bắt kịp Barclay de Tolly, khi ông này đang chuẩn bị cho trận chiến trước khi vào Vitebsk. Trước đó Barclay đã yêu cầu Tập đoàn quân số Hai của Bagration hội quân cùng ông ở Vitebsk, Bagration nhanh chóng di chuyển để vượt sông Dnieper nhưng các lực lượng của Quân đoàn I do Davout chỉ huy đã di chuyển nhanh hơn và chặn đánh Bagration trong trận Saltanovka, khiến cho Tập đoàn quân số Hai không thể tiếp tục hội quân và phải lui về Smolensk. Khi Barclay nhận được tin Bagration không thể đến kịp vào tối ngày 27 tháng 7, ông đã quyết định cho tiếp tục nhổ trại và trật tự rút lui. Về phía Napoleon, giữa trưa cùng ngày ông đã sẵn sàng cho trận đánh, tuy vậy ông dời thời gian khai chiến sang sáng hôm sau để chờ các đơn vị còn lại của mình tập trung đầy đủ ở Vitebsk. Một lần nữa, Napoleon chiếm được Vitebsk mà không cần giao chiến, tương tự như ở Vilna.

Murat đụng độ quân Nga trong trận Ostrovna ngày 25 tháng 7 năm 1812

Tướng Raevsky chỉ huy quân Nga xung phong trong trận Saltanovka ngày 23 tháng 7 năm 1812
Việc chiếm được Vitebsk giờ đã giúp Napoleon tiến sâu vào trong nước Nga khoảng 250 dặm (khoảng 400km), nhưng vấn đề về khí hậu đang tạo nên vấn đề. Cái nóng, cái khát, bùn lầy, muỗi mòng, bụi bặm đang hành hạ từng người lính một. Nhiệt độ cao mà chỉ có những binh lính từng trải từ chiến dịch Ai Cập mới từng kinh qua, nhiều binh lính biến mất sau khi đi tìm thức ăn, một số đổ bệnh vì uống nước bẩn đọng trên đường hoặc thậm chí là nước tiểu ngựa. Kỵ binh – phần lớn tập trung dưới quyền Murat, cũng không đủ rơm hay nước cho ngựa dùng, ngựa phải tạm ăn mái tranh từ những ngôi nhà họ may mắn tìm được. Một số đơn vị mất 1/3 quân số kể từ khi rời Vilna, dù chưa đánh bất kì trận nào nhưng Napoleon đã mất khoảng 35.000 quân.
Trong khoảng thời gian Napoleon đóng ở Vilna, ông liên tục được thông báo về hiệp ước mà Nga đã kí với Đế quốc Ottoman vào ngày 28 tháng 5 năm 1812, sau đó là chi tiết bản hiệp ước mà Nga kí với Thụy Điển ký hồi tháng 3. Điều này khiến Nga rảnh tay đối phó với Napoleon và ông cũng không biết rằng Nga đã kí hiệp ước liên minh với người Anh vào ngày 18 tháng 7. Ông chỉ vui lên khi nghe tin Anh và Hoa Kì xảy ra chiến tranh.
Ông đã tham khảo ý kiến các tướng lĩnh nên làm gì tiếp theo. Berthier, Caulaincourt, Duroc và những người khác đều cảm thấy rằng đã đến lúc tạm dừng. Họ đưa lí do về tổn thất, khó khăn hậu cần, khoảng cách truyền tin quá xa, y tế yếu kém và cái giá phải trả cho một chiến thắng có thể sẽ rất lớn. Napoleon muốn có một trận đánh thật sự với chủ lực địch, và hy vọng buộc Barclay phải chiến đấu ở biên giới thực của Nga. Caulaincourt viết : “Ngài tin vào một trận đánh vì ngài muốn một trận đánh, và ngài tin rằng ngài sẽ thắng trận vì đó là điều ngài cần phải làm”. Napoleon có nói với Narbonne như sau:
Tình thế nguy cấp lúc này đòi hỏi chúng ta phải tiến tới Moscow. Mọi lý lẽ khôn ngoan đều bị vắt kiệt. Xúc xắc đã gieo rồi.
Tuy nhiên dù Barclay đang rút lui, nhưng ông ta vẫn ra chỉ thị cho Alexander Tormasov - chỉ huy Tập đoàn quân số Ba, vào ngày 17 tháng 7 rằng ông được chủ động tấn công sườn phải quân Pháp đang tiến sâu vào lãnh thổ Nga. Napoleon dường như đã xem nhẹ sức mạnh của Tập đoàn quân số Ba, kế hoạch ban đầu của ông chỉ là cần đánh bại Tập đoàn quân của Barclay và Bagration từ đó buộc Sa hoàng phải cầu hòa, cho nên ông đã cho đưa quân Áo của Schwarzenberg đến hỗ trợ mặt trận chính và cho Quân đoàn VII của tướng Reynier thay thế vị trí phòng thủ mà người Áo để lại. Napoleon tin rằng lực lượng này sẽ đủ sức ngăn chặn quân Nga trước khi quân của Chichagov đến. Tuy vậy vào ngày 27 tháng 7 năm 1812, tại Kobryn, lữ đoàn Saxon thuộc Sư đoàn 22, Quân đoàn VII của Pháp bị Tormasov đánh bại, Alexander I tuyên bố đây là chiến thắng lớn đầu tiên của cuộc chiến. Quân của Reynier rút về phía Bắc đến Slonim – nơi bị Tormasov tấn công. Điều này buộc Napoleon phải cho phép quân của Schwarzenberg đến để chi viện cho Quân đoàn VII. Cùng ngày lữ đoàn Saxon thất trận, Barclay cho rút quân khỏi Vitebsk.

Sự đầu hàng của quân Saxon sau trận Kobryn
Ngày 13 tháng 8, Napoleon rời Vitebsk sau 16 ngày đóng quân ở đây. Trước đó một ngày, ông nhận tin vui từ Schwarzenberg khi quân Áo và Quân đoàn VII đã thành công đẩy lùi được quân Nga của Tormasov tại Gorodechno ở sườn phải của Đại quân. Giờ đây Barclay và Bagartion sẽ hội quân tại Smolensk, đồng thời dưới áp lực của Bagration cũng như Sa hoàng Alexander, và cũng do một phần vì các sĩ quan cấp dưới của Barclay dọa sẽ nổi loạn nếu ông không làm vậy. Cho nên ông ta cuối cùng cũng quyết định sẽ giao chiến và Napoleon nhanh chóng di chuyển đến Smolensk. Barclay cho di chuyển về phía Tây để tấn công Napoleon trên bờ bắc sông Dnieper vào ngày 7 tháng 8 nhưng đã cho dừng cuộc tấn công do ông tin theo thông tin từ các báo cáo sai lệch cho rằng Quân đoàn IV của Eugene sẽ đánh úp ông từ cánh Bắc. Tuy vậy thông tin về thay đổi mới chưa đến tay Matvei Platov – chỉ huy quân đoàn Cossack, khi ông đang tiến quân. Platov đụng độ với lực lượng kỵ binh nhẹ thuộc Sư đoàn 22 Kỵ binh của Sebastiani gần Inkovo cách Rudnya 3 dặm về phía Đông vào ngày 8 tháng 8, ban đầu buộc quân Pháp rút lui, nhưng rồi quân Pháp được tăng viên và Platov ngưng truy kích. Người Cossack vẫn sẽ là vấn đề khó chịu, không chỉ cho Napoleon vào lúc này, mà còn là xuyên suốt cho đến khi ông thoái vị.

Bản đồ chiến dịch Smolensk
Vấn đề tại Inkovo không khiến đà tiến công của Napoleon dừng lại mà khiến ông muốn thực hiện kế hoạch của mình sớm hơn, kế hoạch để tiêu diệt Barclay được gọi là “Chiến dịch Smolensk”. Napoleon sẽ vượt sông Dnieper về phía Nam, sau đó di chuyển và đánh chiếm Smolensk trước khi quân Nga kịp trở tay, rồi từ đó bắt cầu vượt sông một lần nữa và đánh vào hậu quân của Barclay, cắt đường rút của ông này về Moscow, cô lập và tiêu diệt quân Nga. Napoleon cho tăng viện quân phòng thủ tại Vitebsk, sau đó ông chia quân của mình thành hai cột tiến quân lớn. Cột quân thứ nhất gồm quân Cận vệ do Napoleon trực tiếp chỉ huy, một phần các lực lượng kỵ binh của Murat (số còn lại của lực lượng này vẫn sẽ đóng tại vị trí gần Rudnya), Quân đoàn III và IV. Cột quân thứ hai dẫn đầu bởi Quân đoàn I của Thống chế Davout, Quân đoàn V và VIII. Cuộc vượt sông sẽ được che dấu bởi số lượng lớn lực lượng kỵ binh dàn trải xung quanh vị trí gần Rudnya của Quân đoàn kỵ binh I, II và III dưới quyền các tướng Nansouty, Montbrun và Emmanuel de Grouchy.
Đêm ngày 13 tháng 8 đến rạng sáng hôm 14, quân Pháp của Napoleon vượt sông Dnieper trên 4 chiếc cầu phao tiến sang bờ bên kia, trong khi Thống chế Davout dẫn đầu cánh quân thứ hai vượt sông ở Orsha. Barclay chỉ để lại Sư đoàn 27 của tướng Neverovski để bảo vệ Krasny cùng một ít pháo và kỵ binh. Khoảng chiều ngày 14 tháng 8, Quân đoàn III của Thống chế Michel Ney và lực lượng kỵ binh của Murat đã phối hợp tấn công Krasny. Với quân số lớn, họ đáng lẽ đã có thể tiêu diệt được quân Nga đóng tại đây, nhưng việc cả hai không thể phối hợp quân binh chủng một cách ăn ý đã khiến cho quân của Neverovski có cơ hội rút lui. Việc không thể hạ Krasny nhanh chóng đã cho phép Neverovski rút về Smolensk và đóng cửa thành, đồng thời được Bagration tăng viện về Smolensk Quân đoàn VII của Nikolai Raevsky vào rạng sáng ngày 15 để bảo vệ phía Nam Smolensk.
Nhận được tin từ Neverovski, các lực lượng của quân Nga bắt đầu rút lui về phía thành phố. Sa hoàng rời quân đội, giao quyền chỉ huy cho Barclay và lệnh phải quyết giữ bằng được Smolensk. Giờ đây kế hoạch đánh bất ngờ của Napoleon đã sụp đổ, nhưng ông lại không đưa ra bất kỳ quyết định lớn nào mà thay vào đó cho dừng cuộc tiến công trong 24 giờ. Một cuộc tấn công vào Smolensk giờ đây cũng sẽ chẳng có ích gì đối với Napoleon khi thống đốc thành phố đã được lệnh di chuyển kho lưu trữ của thành phố, cũng như là với cái chính sách tiêu thổ mà họ đã làm xuyên suốt đường rút quân, Smolensk hẳn cũng sẽ chẳng còn gì. Nhưng thay vì tiếp tục nhanh chóng di chuyển về phía Đông và vượt sông, từ đó cô lập quân của Barclay ở giữa cũng như cắt đường lui về Moscow của người Nga, ông chọn cách tấn công thành phố này, một cách trực diện. Napoleon tin người Nga sẽ không mạo hiểm những di sản cổ kính của Smolensk, nhưng quân của ông lại phải trạm chán lực lượng phòng thủ kiên cường của Bagration khi trận chiến bắt đầu vào ngày 16 và sau đó là quân tăng viện của Barclay. Hơn 100 khẩu pháo đã bắn vào Smolensk trong khi ba quân đoàn Pháp được lệnh đánh chiếm thành phố, đến tối thành phố đã bốc cháy, hoang tàn và không còn có gì để gọi là một chiến lợi phẩm đáng giá.
Tuy vậy trong suốt cuộc chiến, người Nga đã cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu như thế nào trong cuộc chiến giành giật Smolensk, khiến cho người Pháp cũng phải chịu thương vong nặng nề. Nhưng dù sao thì Napoleon đã buộc Barclay phải tập trung cả Tập đoàn quân số Một và Hai vào Smolensk, ông chỉ cần đóng được vòng vây tại đây thì cả Barclay lẫn Bagration đều sẽ bị xóa sổ, và ông đã dự tính làm điều đó. Tuy nhiên những chỉ huy Nga cũng hiểu được tình thế nguy hiểm của mình vào lúc này, vì thế mà bất chấp Smolensk là thành phố thiêng liêng của người Nga, Barclay – trong nỗ lực phải cứu quân Nga ra khỏi tình cảnh bị vậy diệt, đã hạ lệnh rút quân trong đêm. Barclay cho phá hủy kho đạn và cầu cống, để lại lực lượng nhỏ quân cầm cự trong thành phố trong 2 ngày sau đó. Tập đoàn quân số Hai của Bagration di chuyển trước, trong khi quân của Barclay de Tolly di chuyển theo sau. Khoảng rạng sáng ngày 17 tháng 8, quân Pháp tiến vào được thành phố. Quân đoàn III của Ney và Murat bắt kịp hậu quân của Barclay và đánh bại họ ở Valutino ngày 19 tháng 8. Nhưng thay vì cắt đường rút lui của Barclay ngay sau khi vượt sông, tướng Junot đã không làm gì hơn ngoài việc đứng yên (có nguồn ghi là bất tỉnh) và để Tập đoàn quân số Một của Nga chạy thoát, chưa kể phá cầu một cách an toàn.
Mỗi bên chịu thương vong vào khoảng 10.000 người, chiến trường Smolensk đẫm máu và đầy xác người la liệt khắp nơi, thành phố đã bị hủy hoại hoàn toàn và chỉ còn là cái nhà xác khổng lồ. “Khung cảnh này là một trong những chiến trường đẫm máu nhất đối với các cựu binh”, một lính thương kỵ trong đoàn hộ tống Napoleon đến chiến trường nhận xét. Ông muốn lấy Smolensk để làm căn cứ cho mùa đông đang tới gần và bắt đầu lại chiến dịch vào đầu năm 1813, cũng như lấy nơi này làm bàn đạp để đánh tới Moscow hay Saint Petersburg. Nhưng với tình trạng này của thành phố, nó dường chẳng còn giá trị gì nữa. Việc rút lụi lại càng không, ông chẳng có lí do chính trị nào để làm việc này. Nhưng khi xét thấy thực tế Moscow – một thành phố từng là thủ đô của người Nga với vị trí đặc biệt về biểu tượng, chỉ còn cách tay Napoleon mỗi hai tuần hành quân (230 dặm), và người Nga chắc chắn sẽ phòng thủ kiên cường, cũng như việc cánh phải và giờ là cánh trái của ông do Saint-Cyr và Oudinot chỉ huy đã thành công đánh bại Peter Wittgenstein gần Polotsk ngày 17 và 18 tháng 8 và buộc ông này rút về phía Bắc, giờ đây Moscow gần như là mục tiêu hiển nhiên. “Rượu đã rót rồi, phải uống thôi ”, ông nói với Rapp.
Giờ đây, khi nhiều cận thần cầu xin ông hãy đừng tiến xa hơn (điều mà họ vẫn làm xuyên suốt chiến dịch), Napoleon vẫn không muốn trở về mà chưa nó một chiến thắng nào chỉ bởi Smolensk mất do chính sự chủ động rút lui của người Nga và có lẽ ông muốn một cuộc chiến thật sự lớn và ra trò. Khi Berthier – tham mưu trưởng của ông, liên tục nói về chủ đề này, ông quay sang nói:
Vậy thì đi đi, ta không cần anh; anh chẳng là cái gì cả… Đi về Pháp đi; ta không ép đâu.
Và rõ ràng Berthier sợ hãi đã thề thốt rằng bản thân không dám bỏ rời Hoàng đế của mình. Tuy vậy, nỗi lo của các thống chế là có cơ sở. Napoleon đã chứng kiến một trong những chính sách quân sự khắc khổ nhưng hiệu quả nhất để đối đầu với lực lượng quân sự khổng lồ và chậm chạp của mình - thanh dã. Người Nga rút lui, còn dân Nga thì bỏ lại nhà cửa, đốt cả làng lẫn nông sản, lương thực không mang theo được cũng bị thiêu ruội, bất kể thứ gì mà quân địch có thể làm nơi cư trú hoặc nhu yếu phẩm phải bị thiêu hủy. Họ lấy xác động vật chết để đầu độc giếng nước, đốn cây và lật xe để chặn đường. Thậm chí khi cuộc rút quân trở nên mất trật tự, xác người và ngựa cũng đã được dùng để chặn đà tiến quân của Pháp, do xác sẽ thối rửa kinh khủng trong cái nắng nóng lúc này. Napoleon đã rợn người trước những cảnh tượng này. “Ngài muốn né tránh phải suy nghĩ nghiêm túc về việc các biện pháp kinh khủng này cho thấy kẻ thù đang nhắm đến một cuộc chiến như thế nào, sẽ để lại hậu quả ra sao, kéo dài trong bao lâu, một cuộc chiến mà ngay từ những ngày đầu đã hy sinh ở quy mô như thế này ”, Caulaincourt giải thích. Tuy vậy, ông vẫn sẽ vớt bất kỳ cái phao cứu sinh nào nếu có cơ hội. Ngày 28 tháng 8, ông đã chớp lấy cơ hội viết thư tay cho Barclay hy vọng sẽ mở được một kênh liên lạc đến Alexander.
Khác với những người lính già, những tân binh và lính trẻ dường như phấn chấn khi sắp có cơ hội được hành quân đến Moscow. “Toàn bộ quân đội, cả người Pháp lẫn quân nước ngoài bổ trợ, vẫn đang hừng hực khí thế và tự tin”, Trung úy Bourgoing 21 tuổi nói. “Nếu được ra lệnh chinh phục mặt trăng, chúng tôi cũng sẽ trả lời: ‘Tiến lên’ ”, Heinrich Brandt của Quân đoàn Vistula nhớ lại. “Các đồng chí lớn tuổi có thể chế nhạo nhạo nhiệt huyết của chúng tôi, bảo là chúng tôi mất trí hay điên rồ, nhưng chúng tôi chỉ có thể nghĩ đến chiến trận và chiến thắng mà thôi. Chúng tôi chỉ sợ một thứ - đó là người Nga sẽ vội vã cầu hòa”.

Trại lính Pháp đóng trước Smolensk ngày 20 tháng 8 năm 1812

Mikhail Ilarionovich Kutuzov
Đối với người Nga, tình thế đang thật sự trở nên tồi tệ. Dù rằng Barclay cho rút quân khỏi Smolensk để cứu chính quân Nga khỏi vòng vây, tuy nhiên việc Smolensk thất thủ đã mở toang cánh cửa để quân Pháp tiến đến Moscow. Bagration đã yêu cầu Arkacheev chuẩn bị lực lượng dân quân. Người Nga suy cho cùng cũng rất muốn đánh một trận, hệt như Napoleon, nhưng vì quân Pháp tiến quá nhanh nên Barclay không thể đưa quân mình vào vị trí giáp chiến. Chưa kể, Barclay khi còn ở Smolensk, ông đã bày tỏ ý định từ bỏ nơi này đối với Sa hoàng, nhưng lại nói với các chỉ huy như Bagration rằng bản thân sẽ tấn công quân Pháp cùng ngày hôm đó, dĩ nhiên Bagration và các tướng lĩnh đã biết về việc này và không còn tin vào Barclay thêm được nữa. Cho nên dưới áp lực công chúng quá lớn (cũng như một phần vì nguồn gốc Đức của mình) và những lí do trên, Alexander buộc phải thay thế Barclay bằng Mikhail Ilarionovich Kutuzov, một vị tướng 66 tuổi, mắc bệnh gút, được lòng dân, nhiều mánh lới, anh hùng Nga ở Thổ Nhĩ Kỳ, có tài ngang ngửa Napoleon nhưng cũng là bại tướng trong trận Austerlitz bảy năm về trước. Barclay nhận được sắc lệnh của hoàng đế khi đang hành quân qua Vy’azma vào ngày 27 tháng 8 năm 1812. Trớ trêu ở chỗ khi kế hoạch rút lui của Barclay đã thật sự có tác dụng và ảnh hưởng lớn đến quân Pháp, ông lại bị thay thế, dù vậy bản thân Barclay vẫn khẳng định ông "sẵn sàng phục vụ Tổ quốc hết mình trong bất kì chức vụ lẫn nhiệm vụ nào tiếp theo". Để phân trần về hành động của mình, Barclay viết ở cuối thư:
Nếu thần bị thúc đẩy bởi tham vọng mù quáng và liều lĩnh, Bệ hạ có lẽ sẽ nhận được nhiều hơn những báo cáo chiến trường. Nhưng rồi kẻ thù vẫn sẽ đến sát trước cổng thành Moscow mà chúng ta chẳng có bất kỳ lực lượng đủ mạnh nào để chống lại chúng.
Kutuzov đồng tình với phương châm tác chiến như của Barclay, đó là sử dụng lãnh thổ rộng lớn của nước Nga để rút lui và dùng chính sách thanh dã để hạ gục quân đội của Napoleon trong một cuộc chiến tiêu hao kéo dài. Tuy nhiên Mikhail cũng hiểu rằng việc ông được thay thế Barclay là bởi người Nga cũng đã không còn đủ kiên nhẫn khi phải rút lui nữa và nó sẽ phá hủy tinh thần chiến đấu của quân lính, cũng như việc họ không thể để cho Moscow rơi vào tay Napoleon mà không có ít nhất một cuộc chiến phòng thủ vì thành phố, điều có thể khiến đây trở thành thảm họa về chính trị. Đến ngày 3 tháng 9, Kutuzov mới chọn một vị trí phòng thủ để quân Nga chiến đấu, cách Moscow khoảng 70 dặm, ở phía trước ngôi làng
BORODINO

Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất








