[CTQ2] Từ Dịch Thuật Đến Bản Chất Con Người
Chỉ khi không phải là con người, có lẽ chúng ta mới hiểu được thế nào là bản chất con người.

Tôi từng dịch hai cuốn sách.
Vốn dĩ cả hai không phải là thứ tôi muốn dịch. Bên thì về tôn giáo, bên thì về lịch sử, chúng khác xa những áng văn chương lai láng mà tôi từng mơ mộng khi bắt đầu học tiếng Nhật. Thế là tôi dịch với tâm thế hết sức nửa vời, tự nhủ mình dù sao chỉ là một sinh viên năm ba và bên xuất bản không nhận bản dịch này thì cũng là chuyện thường tình. Nhưng không, họ chấp nhận trả tiền nhuận bút cho tôi và trên hết là xuất bản cả hai cuốn sách với họ tên tôi ở chỗ người dịch. Ủa thật hả? Tôi vẫn không thể tin được nỗ lực kiểu như mình mà cũng được ghi nhận là có đóng góp, nhưng chứng kiến cả hai cuốn sách nằm chễm chệ trên kệ sách nhà mình, tôi bắt buộc đối diện với một sự thật bất di bất dịch: từ giờ về sau tôi có sống như thế nào đi chăng nữa, có thay đổi ra sao đi chăng nữa, cái tên ở chỗ người dịch vẫn là cái tên của tôi và văn phong bên trong sách vẫn là văn phong dịch của tôi.
Nhưng nếu nói đây là bản chất trường tồn của con người tôi thì thật không phải. Tôi còn chẳng đóng góp vào quá trình sáng tác, và hai tác giả người Nhật cũng chẳng biết tôi là ai. Trong bài viết Anonymous Sources - A Talk on Translators and Translation (tạm dịch: Nguồn ẩn danh - Một cuộc thảo luận về dịch giả và dịch thuật), dịch giả Eliot Weinberger nhận xét rằng: "Giữa tác giả và dịch giả không có câu chuyện nào cả, mà nếu có thì cũng chỉ xuất hiện một nhân vật duy nhất: tác giả." Ông cho rằng dịch giả chỉ là "một diễn viên đóng vai tác giả" chứ không phải một con người hoàn chỉnh. Thật vậy, làm sao tôi có thể mạo muội gán ghép hai cuốn sách với phần quan trọng nhất của nhân tính như thể tôi là chủ sở hữu không bằng. Hoặc là người đọc chỉ thẳng mặt tôi mỗi khi tôi làm dở, hoặc là người đọc quên luôn sự tồn tại của tôi mỗi khi tôi làm tốt, đó là phận của một diễn viên vô danh, hay nói đúng hơn là của một hồn ma. Nhưng không hiểu sao tôi lại thấy hài lòng với điều đó, hài lòng đến nỗi làm tôi tin rằng chính sự không ràng buộc ấy, chính sự mông lung giữa thực tại chủ quan và thế giới khách quan ấy, mới có thể mang lại câu trả lời cho nan đề “Rốt cuộc chúng ta là… cái quái gì?”.
1. Mâu Thuẫn Không Thể Hóa Giải
Có thể nói, mọi định nghĩa xoay quanh dịch thuật đều luôn ẩn chứa khác biệt cơ bản giữa "nguồn" và "đích". Về từ nguyên, "dịch" (譯) có nghĩa là "giải thích", "giải nghĩa"; "thuật" (術) có nghĩa là "kỹ thuật", "học thuật", "phương pháp". Từ "dịch thuật" do vậy có nghĩa là "phương pháp giải nghĩa" từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác. Trong tiếng Anh, từ "translation" dành cho dịch thuật có gốc Latinh là trans-latio, nghĩa là "mang qua" và ám chỉ người dịch mang văn bản gốc từ ngôn ngữ này qua ngôn ngữ khác. Tóm lại là có một thứ tồn tại ở "nguồn", và người dịch mang nó về "đích", để rồi cùng một thứ xuất hiện ở hai nơi khác nhau: người ta có thể đọc được những tác phẩm của Murakami Haruki bằng cả tiếng Nhật và tiếng Việt.
Các nhà nghiên cứu truy nguồn gốc khác biệt giữa "nguồn" và "đích" về bài phát biểu vào năm 1813 của nhà thần học và triết gia người Đức Friedrich Schleiermacher có tên Über die verschiedenen Methoden des Übersezens (tạm dịch: Bàn về các phương pháp dịch thuật khác nhau). Theo Schleiermacher, dịch giả là người "muốn đưa hai phía hoàn toàn xa lạ là tác giả và độc giả lại gần nhau" và giúp "độc giả hiểu và tận hưởng trọn vẹn sáng tác của tác giả mà không bị bắt phải rời khỏi vùng an toàn của tiếng mẹ đẻ", tức "hoặc là để yên tác giả hết mức có thể và đưa độc giả đến gần tác giả, hoặc là để yên độc giả hết mức có thể và đưa tác giả đến gần độc giả". Từ đó, người ta thường tổng quát thành hai trường phái là "nội hóa" (domestication) - làm cho văn bản gốc tự nhiên và dễ hiểu nhất có thể với độc giả cũng như đồng hóa toàn bộ khác biệt về văn hóa và suy nghĩ - và "ngoại hóa" (foreignization) - giữ nguyên tính mới lạ của văn bản gốc và thách thức tư duy độc giả. Những học giả về dịch thuật thường chọn ngoại hóa, điển hình như Lawrence Venuti trong tác phẩm The Translator's Invisibility (tạm dịch: Sự Tàng Hình Của Dịch Giả) cho rằng "bạo lực tồn tại ở bản chất và mục đích hành vi dịch thuật" và dịch giả cần phải ngoại hóa bản dịch để làm giảm hậu quả của sự bạo lực này nhất có thể. Mặt khác, biên tập viên và nhà xuất bản thường đi theo trường phái nội hóa để chiều lòng đại chúng với những bản dịch "mượt mà", "không cứng nhắc".
Ở Việt Nam cũng có một phiên bản của cuộc tranh luận này, cụ thể là xoay quanh ba chữ Tín (信), Đạt (達), Nhã (雅). Đây là bộ tiêu chuẩn dịch thuật được đề xướng bởi Nghiêm Phục (嚴復, 1854-1921) - một trong những nhà văn và dịch giả tiên phong của Trung Quốc vào thế kỷ 20. Phần lớn thảo luận về dịch thuật tại Việt Nam chỉ xoay quanh ba chữ này làm căn cứ để trao đổi thảo luận. Người thì bảo một bản dịch vừa phải trung thành với nguyên bản, vừa phải dễ hiểu, lĩnh hội được nguyên ý của tác giả, vừa phải văn vẻ trôi chảy, lưu loát, đó lần lượt là Tín, Đạt, Nhã. Người thì bảo chỉ cần hai chữ Tín và Đạt là đủ và "giải tán" chữ Nhã, vì chữ Nhã là vô nghĩa. Lại có những người còn hăng hái hơn thế, đề nghị "giải tán" cả hai chữ Đạt, Nhã và chỉ để lại chữ Tín, bởi họ cho rằng, trong dịch thuật chỉ cần một chữ Tín là đủ. Với tôi, Tín, Đạt, Nhã chỉ là nội hóa - ngoại hóa nhưng bị xẻ thành ba phần khác nhau, để rồi người ta thi nhau xem xẻ như thế nào mới là "hoàn hảo nhất".
Nhưng ranh giới giữa nội hóa và ngoại hóa liệu có rạch ròi đến vậy? Dịch giả, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo đã đặt nghi vấn về bản chất mơ hồ của Tín, Đạt, Nhã mà cho rằng chúng ta phải từ bỏ lý thuyết đã quá đỗi lạc hậu này, và không khó hiểu khi các dịch giả và học giả nước ngoài cũng làm điều tương tự với lối suy nghĩ phân dịch thuật thành hai nửa không thể gắn liền. Trong tác phẩm The Philosophy of Translation (tạm dịch: Triết Lý Dịch Thuật), dịch giả Damion Searls cho rằng cả bản gốc lẫn bản dịch đều không có cái gọi là tính nội và tính ngoại vì bản chất ngôn ngữ không phải một thể thống nhất. Ông trích quan điểm của Venuti rằng không có bản dịch nào là ngoại hóa hoàn toàn vì luôn được diễn đạt bằng ngôn ngữ đích và chiều theo tính nội của ngôn ngữ đích, và cũng không có bản dịch nào là nội hóa hoàn toàn vì nó có thể bị ngoại hóa trở lại bằng cách phân tích bản gốc và chỉ ra những lỗi sai cố tình được thực hiện trong quá trình nội hóa. Mặt khác, một tác phẩm đặc biệt luôn mang trong mình một tính ngoại nào đó, ngoại hóa cách nhìn nhận xáo rỗng, rập khuôn của chúng ta về thế giới xung quanh và mang lại một nguồn sinh khí mới cho chính trải nghiệm của chúng ta. Nếu một thứ gì đó đã quá nội hóa, quá hiển nhiên thì chúng ta không thể nhận thức được sự tồn tại của nó nữa. Damion cho rằng tất cả những cuộc thảo luận chỉ thể hiện cho khác biệt giá trị (value judgments) đội lốt khác biệt khái niệm (conceptual difference), hoặc nói theo kiểu triết gia Henri Bergson thì là khác biệt mức độ đội lốt khác biệt bản tính. Trong Học Thuyết Bergson, Gilles Deleuze có viết về triết lý ấy thế này:
Tất cả vấn đề giả của ta chính đến từ việc đã không biết vượt ra khỏi kinh nghiệm để đến với những điều kiện của kinh nghiệm, đến với những khớp nối của cái thực, và tìm lại những gì khác biệt về bản tính trong những hỗn hợp xảy đến với ta, tức những hỗn hợp mà ta sống.
Kỳ thực, nãy giờ mò mẫm một hồi mà tôi không sao tìm ra bản tính của cái được gọi là dịch thuật và mục đích thật sự mà dịch thuật hướng tới. Mông lung có lẽ đã nằm ở cốt lõi nghề dịch, và nhiều dịch giả tập trung vào thực hành chứ không ngồi tranh cãi về chính tiêu chuẩn thực hành của họ. Damion Searls nhận xét: "nói tích cực thì là không liên quan, còn nói tiêu cực thì là phiền phức". Mặt khác, chúng ta cũng có thể suy nghĩ theo kiểu của Octavio Paz khi ông cho rằng "không có văn bản nào là độc nhất vô nhị vì bản chất ngôn ngữ là dịch thuật, bắt nguồn từ những hành động phi ngôn ngữ rồi đến những ký hiệu và cụm từ được dịch từ những ký hiệu và cụm từ khác." Nhưng tôi thì có suy nghĩ riêng. Tại sao chúng ta lại phải tìm mọi cách cắt nghĩa cái sự mông lung ấy? Tại sao trong những cuộc giằng xé ấy, chúng ta lúc nào cũng phải đứng ở một bên rồi lại đổi sang bên còn lại một khi hoàn cảnh thay đổi? Tại sao chúng ta phải dùng chữ "tùy" như một sự bỏ cuộc? Nếu đã bỏ cuộc thì bỏ cuộc đến cùng đi chứ! Dịch thuật phải bắt đầu từ cái vô, từ cái sự tồn tại vô lý của một dịch giả mà tôi chỉ có thể tóm gọn bằng hai chữ: hồn ma.
2. Dịch Giả Như Một Hồn Ma
Trước khi đi vào lý do tôi so sánh dịch giả với hồn ma, chúng ta hãy cùng nhìn về phía dịch thuật một lần nữa nhưng ở góc độ bớt lý luận hơn, mang tính hành động nhiều hơn. Có thể khẳng định, dịch là đọc gắn liền với viết. Nói một người đang dịch đồng nghĩa với việc nói họ đang đọc bản gốc theo một kiểu nào đó và viết ra bản dịch cũng theo một kiểu nào đó, và giữa đọc và viết như thế này có một mối quan hệ hết sức kỳ lạ mà tôi với kinh nghiệm dịch thuật ít ỏi của mình cũng có thể cảm nhận được.
Thật ra, một dịch giả viết bản dịch cũng không khác một tác giả viết văn là bao. Đồng ý là dịch giả gần như bị văn bản gốc chi phối hoàn toàn, nhưng ai nói một tác giả hoàn toàn tự do trong sáng tác của chính mình? Từ thể loại, đối tượng độc giả, sự tồn tại của những tác giả khác đến cách sử dụng ngôn ngữ của chính mình, một tác giả dù không muốn cũng phải đối diện với vô vàn lắt léo ngăn cản họ giãi bày tư tưởng thật sự nằm sâu trong tâm hồn mình. Ngược lại, nói là gần như chi phối hoàn toàn nhưng dịch giả chắc chắn không phải là những người sao chép nguyên xi một văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Việc sao chép cùng lắm có thể áp dụng với nội hàm, với tư tưởng chứ chắc chắn không thể áp dụng với ngoại vi, với hình thức. Đặc biệt, với một tác giả có khối lượng tác phẩm lớn và được biết đến rộng rãi, dịch giả thậm chí còn có thể tự do hơn trong việc quyết định ý đồ dịch: hoặc là chúng ta muốn soi sáng tầm vóc của tác giả, hoặc là chúng ta muốn nhấn vào những góc khuất mà nhiều người chưa biết đến, hoặc là còn nhiều ý đồ hơn thế nữa. Murakami Haruki dịch tác phẩm Gatsby Vĩ Đại sang tiếng Nhật bất chấp đã tồn tại rất nhiều bản dịch tiếng Nhật khác dành cho kiệt tác văn học này. Ông thấy không có bất kỳ bản dịch nào thỏa mãn cái hình dung về Gatsby trong tâm trí mình nên đã bắt tay vào dịch để tới gần những rung động khi xưa mà ông từng cảm thấy với tác phẩm vô cùng quan trọng trong cuộc đời mình. Thế mới nói, viết một bản dịch cũng không khác cách chúng ta viết một văn bản bình thường là bao, và sự xuất hiện của một ngôn ngữ khác chỉ làm nên sự khác biệt mức độ chứ không phải khác biệt bản tính.
Nhưng đọc thì rất khác. Đọc để dịch hoàn toàn không giống đọc để tiêu khiển chút nào. Nó cũng không phải là kiểu phân tích từng chữ một để rồi lạc lối trong những con chữ xa xôi, vì đây là phần việc dành cho tác giả hơn là dịch giả. Không gian đọc của một dịch giả dường như tồn tại bất chấp sự nội hóa và ngoại hóa lẫn lộn của thế giới xung quanh: từ câu từ, văn phong đến cả nhịp điệu đều vừa lạ vừa quen, rõ ràng hiện thân trong một ngôn ngữ khác nhưng lại lấp lửng mà không bao giờ vượt khỏi tầm với. Tôi rất thích định nghĩa của Damion Searls: "Đọc như một dịch giả là đọc mà chú ý đến cái nền của ngôn ngữ, thay vì coi sự tồn tại của ngôn ngữ đó là hiển nhiên". Thế nào là cái nền của ngôn ngữ? Đó là cách người bản xứ thường tư duy về thế giới xung quanh thông qua chính ngôn ngữ đó, nằm sẵn trong mỗi văn bản kể cả khi nó còn chưa được dịch sang ngôn ngữ khác. Một dịch giả phải biết được cái văn bản đấy đang kéo tư duy nền lại gần hay đẩy tư duy nền ra xa, quyết định xem yếu tố nào chỉ là đặc trưng của tư duy ngôn ngữ chứ không phải đặc trưng của riêng văn bản đấy mà làm chúng khuất khỏi tầm mắt độc giả. Chúng ta không cần phải dịch thì mới có thể đọc như một dịch giả, nhưng trừ khi bạn nắm vững cái nền của một ngôn ngữ khác để lấy làm cơ sở so sánh thì rất khó bắt được cái nền của ngôn ngữ mình đang sử dụng. Và để chất vấn cách hiểu của mình về cái nền ấy thì một trong những cách tốt nhất vẫn là viết ra bằng một ngôn ngữ khác, hay nói ngắn gọn là dịch.
Quan trọng hơn, một dịch giả phải đọc như thế thì mới hiểu ra rằng thế giới của mình không nằm ở thế giới hữu hình gắn bó khăng khít về mặt vật chất, và bản thân sự tồn tại của mình không phải cầu nối giao tiếp giữa các nền văn hóa, giữa một người ở thời đại này với hàng vạn con người ở thời đại khác. Thế giới của một dịch giả là thế giới của trải nghiệm vô hình chứa đầy tương tác trừu tượng, và bản thân dịch giả là một hồn ma. Tôi lấy cái từ hồn ma này qua bài viết Beyond, Between Translation, Ghosts, Metaphors (tạm dịch: Vượt Thoát Song Hành - Dịch Thuật, Hồn Ma, Ẩn Dụ) của học giả Michael Emmerich. Đoạn văn sau của ông chính là cảm hứng cho bài viết này:
Khi một dịch giả mở máy tính lên mà bắt đầu dịch, cô hoàn toàn ở một mình. Không có giao tiếp nào ở đây cả. Thật vậy, không có bất cứ thông điệp nào được truyền tải từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, bởi vì từ góc nhìn của dịch giả ở đúng cái khoảnh khắc cô đang dịch, cô không song hành với bất cứ ngôn ngữ nào cả, và bản thân ngôn ngữ của cô cũng không tách thành một tồn tại độc lập. Thay vào đó, ta có thể nói cô đang đắm chìm trong hai ngôn ngữ, chúng đều sống trong cô, tập trung cùng một lúc, cùng một nơi và không ngừng biến đổi. Cô không phải là một cầu nối; cô là một thứ gì đó giống như một hồn ma.
Dịch giả là một hồn ma, không vô hình nhưng cũng chẳng hữu hình với cả thế giới của tác giả lẫn thế giới của độc giả, không hướng nội cũng chẳng hướng ngoại vì bản thân sự tồn tại ấy đều có cả tính nội lẫn tính ngoại. Dịch thuật không tách bạch khỏi những ràng buộc lịch sử, những mâu thuẫn chính trị, những vận động kinh tế xã hội, nhưng cũng không vì thế mà diễn ra "giữa" hai nền văn hóa khác nhau. Dưới con mắt của dịch giả, dịch thuật nằm trong sự giao thoa không ngừng của văn hóa và con người và từ chối bất kỳ định nghĩa nào về chính nó, mà nếu có thì cũng chỉ là khác biệt về mức độ chứ không phải là khác biệt về bản tính. Thế thì cái khác biệt về bản tính nằm ở đâu khi điểm xuất phát còn chẳng thể nào cố định? Nếu bạn có thể đặt ra được câu hỏi như vậy và hài lòng với việc mãi mãi chẳng có được một câu trả lời nào cả, tôi tin bạn đã bước một chân vào chính bản chất của con người.
3. Từ Dịch Thuật Đến Bản Chất Con Người
Rốt cuộc chúng ta là cái quái gì? Chắc hẳn bạn đã gặp vô vàn định nghĩa của mọi người xung quanh, và cũng gặp vô vàn định nghĩa xuất phát bên trong chính mình qua mỗi chặng đường khác nhau của cuộc đời. Nhưng sau khi nghĩ đủ kỹ bạn sẽ nhận ra tất cả định nghĩa đều là tạm bợ, là đúng ở một khía cạnh nào đó, một bối cảnh nào đó chứ chắc chắn không thể áp dụng cho bối cảnh của mình. Thế là bạn đành bỏ cuộc, đành chấp nhận cái gọi là vô thường và những biến đổi không ngừng dù còn chẳng tư duy nổi rốt cuộc chúng nó là cái quái gì. Và rồi bạn dừng suy nghĩ, tiếp tục sống cái cuộc đời ảm đạm của mình, chờ đợi đến khi biến cố xảy đến thì lại đắp đại một cái định nghĩa khác để cho bản thân không vụn vỡ, sau rồi lại lột nó ra như lột một bộ đồ cũ kỹ mà quay trở lại với những bước đi ảm đạm... Tôi không chê trách gì điều đó cả, bởi mọi câu từ nhận xét chúng ta dành cho nhau chỉ là thứ ngôn ngữ chắp vá xuất phát từ tiêu chuẩn cũng chắp vá không kém. Nhưng vậy chẳng lẽ bản chất con người là một cái thứ gì đó không thể vươn tới nổi, từ chối mọi cố gắng định nghĩa như cái dịch thuật mà tôi đã viết từ nãy giờ?
Không hẳn. Nếu như bạn sống lắng lại và bắt đầu đọc lấy cái nền của thế giới này giống như cái cách một dịch giả đọc lấy cái nền của ngôn ngữ, để rồi thoát khỏi cái vỏ vật chất cùng mâu thuẫn không thể hóa giải mà chu du vào miền giao thoa của những tư tưởng hệt như một hồn ma, thì tôi tin bạn sẽ không còn thắc mắc về bản chất con người nữa, thậm chí cái bản chất còn tự động đến chỗ bạn dù bạn chẳng cần lấy nó. Chúng ta quan sát thế giới qua cặp mắt của chính mình, nhưng chẳng thể nào quan sát được chính cặp mắt đó trừ khi được cấp cho một cặp mắt giả tạo khác phản chiếu cặp mắt của mình (hoặc nói cách khác là một cái gương). Tương tự, một hồn ma không phải là một con người, nhưng hồn ma đấy lại nắm bắt và phản chiếu con người thật hơn bất cứ con người nào. Vậy mới nói, chỉ khi không phải là con người, có lẽ chúng ta mới hiểu được thế nào là bản chất con người. Đến lúc đó, viết hay không sẽ là tùy bạn, nhưng bạn vẫn sẽ muốn viết một thứ gì đó như cách tôi đang viết bài viết này, không phải để mang đến một thứ gì đó tốt đẹp cho thế giới này mà là để kết nối với phần sâu thẳm bên trong mình. Thật ra nói là bên trong hay sâu thẳm thì cũng chẳng đúng lắm, bởi vì cái bản chất ấy đã vượt ngoài phạm vi của không gian, thậm chí của thời gian, của tất cả những định nghĩa chúng ta cố gắng gán ghép cho nó. Viết đến đây, tôi lại nhớ đến những lời của Henri Bergson, của một con người cho rằng triết học là để "khai mở ta với cái phi nhân và với cái siêu nhân, vượt qua thân phận con người", rất phù hợp để làm kết bài:
Nếu tôi đi từ ngoại vi về trung tâm, nếu tôi tìm trong sâu thẳm của mình thứ gì đồng dạng nhất, thường hằng và tồn tục nhất của bản thân, tôi lại thấy một thứ gì đó khác. Dưới những tinh thể được đẽo gọt và dưới sự kết tụ bề mặt ấy, là một sự liên tục đang lưu chuyển không hề giống với bất kì thứ lưu chuyển nào từng được biết. Đó là một sự tiếp diễn các trạng thái, mỗi thứ báo hiệu thứ tiếp theo và lưu giữ cái trước đó. Nói cho đúng thì chúng chỉ cấu thành những trạng thái đa tạp khi tôi đã trải qua và quay lại để quan sát dấu tích của chúng mà thôi. Còn trong khi tôi đang sống trải thì chúng được tổ chức quá chắc chắn, được thổi hồn từ sâu thẳm trong một nhịp sống chung, đến độ không thể nói rõ khi nào một thứ trong đó kết thúc, khi nào thì thứ khác bắt đầu.
26/04/2025
Vũ Ngọc Bảo
Email: [email protected]
Nguồn tham khảo
1. Cao Xuân Hạo, Bàn về dịch thuật, Ấn phẩm Tia Sáng, 2005. Truy cập tại: https://tiasang.com.vn/van-hoa/ban-ve-dich-thuat-1517/
2. Lê Bá Thự, Tiêu chí của dịch văn học, VnExpress, 2012. Truy cập tại: https://vnexpress.net/tieu-chi-cua-dich-van-hoc-1970747.html.
3. Esther Allen, Susan Bernofsky, In Translation: Translators on Their Work and What It Means, Columbia University Press, 2013.
4. Rainer Schulte, John Biguenet, Theories of Translation: An Anthology of Essays from Dryden to Derrida, University of Chicago Press, 2017.
5. Gilles Deleuze, Học thuyết Bergson, Nguyễn Anh Cường dịch, Nhà xuất bản Tri thức, 2024.
6. Damion Searls, The Philosophy of Translation, Yale University Press, 2024.

Sự kiện Spiderum
/su-kien-spiderum
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

