[CTQ2] Tôi Là Con Cừu Hay Là Cái Hộp Chứa Con Cừu?
Tại sao con cừu cứ phải là một con gì đó có bốn chân và có lông, và không phải là một thứ nào đó khác? Và cuối cùng thì tôi là ai, là gì: là một con cừu bị kiềm toả trong các ý niệm, hay là một cái hộp chứa đựng ít nhất một khả năng nào đó?
Nếu phải nói về thế giới và về chính mình, chúng ta sẽ nói gì và nói thế nào?
Anh phi công trong tác phẩm Hoàng tử bé đã được hoàng tử bé yêu cầu vẽ một con cừu. Với yêu cầu này, tác giả Antoine Saint-Exupéry kể ta nghe về hai cách xử lý của anh phi công. Cách đầu tiên anh chọn chính là cố gắng thể hiện một cách trung thành nhất có thể với những đặc điểm vốn được xem là cố hữu của một con cừu. Khi nói những gì mình vẽ ra là cừu thì anh cũng đang yêu cầu (dù cho anh có ý thức hay không) hoàng tử bé cũng phải nhìn nhận đối tượng được vẽ theo cách của anh. Và kết quả là hoàng tử bé không đồng ý. Sau nhiều lần cố gắng nhưng không thành thì anh vẽ một cái hộp, và nói con cừu đang ở trong hộp. Lúc này, anh phi công (dù cho anh có ý thức hay không) đã không còn áp cách nhìn nhận của anh lên hoàng tử bé nữa, và có vẻ như anh bất lực: con cừu nằm trong đó, muốn nó thế nào thì nó là thế ấy. Thú vị là cậu bé lại ưng thuận với bức hoạ cái hộp đó.
Câu chuyện này gợi ra một câu hỏi: Tại sao con cừu cứ phải là một con gì đó có bốn chân và có lông, và không phải là một thứ nào đó khác? Mở rộng hơn, có phải chúng ta đã dồn đóng mọi vấn đề vào trong các khuôn mẫu tư duy nào đó, và mình chỉ nhận biết và theo đuổi những giá trị bị đóng khung ấy? Và cuối cùng thì tôi là ai, là gì: là một con cừu bị kiềm toả trong các ý niệm, hay là một cái hộp chứa đựng ít nhất một khả năng nào đó?

1/ Tôi là một con cừu
Tâm trí con người có thể được xem như một tấm bảng trắng, và từ khi được sinh ra, tấm bảng trắng ấy đã in rõ nhiều vết phấn. Điều dễ thấy nhất là những gì ta được thừa hưởng từ gia đình và xã hội. Đó là ngôn ngữ mẹ đẻ, điều kiện kinh tế, địa vị xã hội, nền giáo dục được thụ hưởng, niềm tin tôn giáo, v.v. Tất cả những thứ này định hình tư duy của chúng ta, cung cấp cho chúng ta những tiêu chuẩn và công cụ để nhận định về hiện thực xung quanh và về chính sự tồn tại của bản thân mình. Nhưng chuyện không chỉ có thế. Nhìn từ góc độ tâm phân học, mỗi một cá nhân còn được định hình trong khuôn khổ của bản năng. Sigmund Freud đã nhìn ra được điều đó và gọi đó là vô thức cá nhân. Carl Jung nhìn sâu hơn và đã phát triển thuật ngữ vô thức tập thể, và đối với Jung thì vô thức tập thể mới là cái mang lại nhiều ảnh hưởng sâu sắc nhất đến đời sống của các cá nhân. Di sản của hai cây đại thụ tâm phân học này đã cho thấy một thực tế rằng ngay từ khi sinh ra, con người, xét như những cá nhân và như một cộng đồng, không thể là một tấm bảng trắng được. Họ không cần phải đợi xã hội viết gì vào, vì với tư cách là một cá thể loài, con người đã có sẵn những khuôn mẫu tư duy rồi. Đó chính là thực tế!
Khi trưởng thành và nhất là lúc cái tôi lớn mạnh lên, con người nghĩ rằng mình đã đủ khôn để tự do điều chỉnh và vượt thoát cái thực tế cứng nhắc trên, và để có thể tự do định đoạt đời mình. Lý tưởng là chúng ta có thể chọn lấy cho mình một lối suy nghĩ riêng. Chúng ta coi đấy là cách mạng tự do. Dầu vậy, cuộc thoát ly ấy vẫn chỉ là bề nổi. Trước đây, tức là trước khi ta ý thức được tự do của bản thân, ta luôn sống dựa theo các khuôn mẫu tư duy hay các định hướng của xã hội và của bản năng, giống như con người trong cái hang của Plato vậy; giờ đây, ta vùng thoát ra và tự chọn lấy hướng đi riêng, chẳng hạn như đi về phía cửa hang nơi có ánh sáng mặt trời. Thế nhưng, điều đau lòng là xem ra chúng ta chỉ đang lý tưởng hóa cái hiện thực, là những mẫu hình mà xã hội thừa nhận, vẫn gắng sức theo đuổi những giá trị mà xã hội quy định.
Ta hãy thử xét trường hợp này. Giả như xã hội - cha mẹ, thầy cô, v.v. - không bảo tôi phải sống như những người có ích như Warren Buffett hoặc Andrew Carnegie. Nhưng sau bao năm sống trong đời, tôi thấy là mình nên như họ, hoặc ít nhất là giống với một trong số họ ở điểm nào đó. Tôi tự do theo đuổi ham muốn ấy: thức dậy lúc ba giờ sáng, thiền định, chạy bộ và kết thúc mỗi ngày với 2000 trang sách. Mọi thứ suôn sẻ cho đến khi sang tuần thứ ba: tôi uể oải và mệt mỏi, rồi bỏ cuộc với niềm tin rằng mình chẳng thể nào thành công như Buffett hay Carnegie. Một cách nào đó, tôi đã tự do (hoặc tự nguyện) rập đời sống mình theo khuôn đời sống của người khác - chẳng ai thúc ép cả! Khi thấy mình không giống Buffett hay Carnegie, tôi thất vọng vì thấy mình thật tầm thường, thật bất tài, thật vô dụng, trong mức độ tôi tin những từ đó có nghĩa là không được như Buffett hay Carnegie. Và khi ấy, tôi giống như anh phi công trong tiểu thuyết Hoàng tử bé, chỉ thấy con cừu trong hệ quy chiếu gồm các tiêu chuẩn và giá trị đã được định sẵn (như có bốn chân, có lông trắng), chỉ thấy tôi trong các hình mẫu nơi Buffett hay Carnegie.
Thế giới và chính chúng ta luôn đóng khung chúng ta trong một cái hộp với đầy những niềm tin sẵn có, đầy những lý thuyết về cuộc đời; và chúng ta đã để cho tất cả những thứ đó biến chúng ta thành những con cừu, chỉ biết đi theo những lối mòn và không còn nhìn thấy được “cái khác” nơi cuộc sống và nơi bản thân mình. Viktor E. Frankl trong cuốn Khủng hoảng hiện sinh [1] nói rằng, khi ấy chúng ta chỉ muốn làm theo những gì người khác làm, hoặc là sẽ làm điều người khác muốn. Càng ngày thì con người càng bị giới hạn, bị quy giản chỉ còn là những thực thể bị đặt vào trong những hoàn cảnh tách biệt nhau, chỉ qua khía cạnh sinh học, tâm lý học, xã hội học, v.v.. Ở đó con người luôn ở trong tình trạng căng thẳng giữa một bên là hiện thực có hạn do bản tính tự nhiên và môi trường xã hội tạo ra, với một bên là lý tưởng muốn vùng thoát ra khỏi những giới hạn. Bao lâu con người còn ở trong những căng thẳng như thế thì bấy lâu con người càng thất vọng, chán chường và thờ ơ. Điều oái oăm lại là con người tự bản tính không thể xoá bỏ cũng như không thể vượt ra hay đứng trên sự căng thẳng kia. Đó là một thực tế, nhưng con người bằng trực giác và suy lý luôn có thể nhận ra rằng câu chuyện về nhân loại, về bản thân mình phải còn có một điều gì đó khác nữa, chứ không thể đơn điệu như thế. Đó chẳng phải là điều ta muốn nói khi khẳng định rằng “tôi sống” chứ không phải “tôi tồn tại” sao?
2/ Tôi là một cái hộp chứa một con cừu
Tôi sống! Nhưng sống thực sự là gì?
Rõ ràng, bằng trực giác và suy lý, ta có thể thấy rằng thế giới không thể chỉ là con cừu, tôi không thể là con cừu, nhưng cả tôi và thế giới đều là cái hộp chứa một con cừu. Nghĩa là con người chúng ta vẫn có khả năng nhìn ra trong thế giới và trong chính bản thân mình một con cừu “khác” và có thể là một cái gì đó khác con cừu. Loài vật chỉ tồn tại tự nó, nó bị những quy luật tất định sinh lý hóa chi phối, nó chỉ có đó, trong khi loài người là loài vật tồn tại cho nó, được phép chọn cho mình một lý do, một mục đích, một ý nghĩa tồn tại. Cái tạm gọi là lý do, mục đích hay ý nghĩa ấy không phải là một sản phẩm do ai đó làm sẵn, nhưng là sản phẩm do chính tôi tạo ra thông qua sự lựa chọn tự do và cảm xúc riêng của mình.
Tri thức đầu tiên và trước hết con người cần phải biết chính là sự vật không phải như chúng xem ra. Khi đứng trước mỗi hiện tượng, ta luôn có thể tìm ra được nhiều điều khác ẩn dưới, và có thể là chi phối, những hiện tượng đó. Ngoài ra, mỗi góc nhìn, mỗi cách tiếp cận khác nhau còn đưa đến những giải thích khác nhau. Theo đó, sự vật xuất hiện theo cách chúng ta muốn giải thích chúng: hiện tượng này hiện tượng nọ có thể bắt nguồn chỉ từ một thuyết nhân quả không lối thoát, hay một sự tương tác ngẫu nhiên của các nguyên tử, hay một sự vận động tất yếu của xã hội, hay một niềm tin tín ngưỡng nào đó, v.v.. Ngay như thời gian, từng được xem như là giá trị tuyệt đối, cũng chỉ là thứ được đo lường theo cảm nhận mỗi người. Điều này lý giải vì sao khi ngồi với một cô gái xinh xắn trong hai giờ thì ta cảm thấy thời gian cứ như hai phút, còn khi ta ngồi trên một cái bếp lò nóng trong hai phút thì thời gian cứ như hai giờ.
Trong Hoàng tử bé, trước hàng ngàn bông hoa xinh đẹp phơi bày trước mặt mình, chàng hoàng tử đã định nghĩa thế nào là xinh đẹp. Không phải “xinh đẹp tự nó,” nhưng là “xinh đẹp cho tôi.” Tôi thấy bông hoa này xinh đẹp, vì nó đẹp cho tôi, và nó có ý nghĩa với tôi. Chúng ta chọn yêu ai đó, điều gì đó và rồi nó trở nên ý nghĩa, chứ không phải vì nó đã mặc một ý nghĩa nào đó từ trước mà chúng ta mới yêu nó. Chúng ta luôn có một khả năng mang lại ý nghĩa như thế cho tất cả mọi thứ, kể cả cho sự hiện diện của chính chúng ta trên thế giới hay cõi đời này. Tìm ra được một ý nghĩa cho mọi và mỗi sự chính là sống thật, sống một cách tự do. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cảnh giác với trạng thái tự do này, bởi nếu không ta sẽ dễ quay trở lại vấn đề bên trên: cố gắng nén đời mình vào một hay nhiều khuôn mẫu (ở đây là một hay nhiều ý nghĩa) nào đó.
Trong cuốn sách Phải trái đúng sai, Michael Sandel đã dẫn lại quan điểm của Alasdair MacIntyre trong tác phẩm After Virtue: A Study in Moral Theory. Alasdair MacIntyre đã thay thế quan niệm con người tự nguyện của chủ nghĩa tự do bằng quan niệm con người kể chuyện. Chúng ta sống cuộc đời mình bằng cách đi tìm một câu chuyện kể, và trong câu chuyện ấy có những bối cảnh đặc thù, có những con người mà chúng ta liên đới, có những lý tưởng mà chúng ta theo đuổi. “Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi ‘tôi phải làm gì?’ nếu trước đó tôi trả lời được câu hỏi ‘Câu chuyện nào tôi thấy mình trong đó?’. Sống một cuộc đời là tìm kiếm một câu chuyện với khao khát hòa hợp và gắn kết. Câu chuyện đời tôi luôn gắn với câu chuyện của cộng đồng đã cho tôi bản sắc, bản sắc ấy cấu thành cuộc sống và xuất phát điểm đạo đức của tôi.” [2]
Đi tìm một câu chuyện theo cách nói của MacIntyre cũng chính là sự duy trì căng thẳng một cách lành mạnh theo quan điểm của Viktor E. Frankl. Như đã trình bày ở trên, bác sĩ Frankl cho rằng cuộc sống con người vốn lẩn quẩn quanh những căng thẳng liên tục giữa hiện thực (tôi là) với lý tưởng (tôi muốn tôi là). Duy trì căng thẳng một cách lành mạnh là tìm ra một câu chuyện mà ở đó, tôi không chịu khép mình trong hiện thực “tôi là” cũng không buông mình trôi theo lý tưởng “tôi nên là.” Nói thế giới này và cuộc đời này là một cái hộp chứa một con cừu tức là nói ở giữa những căng thẳng, tôi luôn có thể tìm thấy nơi hiện thực vốn là thứ đã được định hình một ổ khoá, cũng như tìm ra nơi lý tưởng của mình một chìa khoá. Chúng ta chính là có khả năng tìm thấy cả ổ khoá và chìa khoá, là có khả năng tra chìa vào ổ và mở ra vô vàn điều còn ẩn giấu. Tôi sống chính là như thế!
***
Con người là một sinh vật xã hội, thế nên cần dùng ý niệm, ngôn từ, hệ giá trị để tương tác với nhau. Tuy nhiên, khi chỉ sống với ý niệm, ngôn từ, hay hệ giá trị mà xã hội đặt ra, chúng ta sẽ chỉ là những con robot. Trong thời đại AI này, con người băn khoăn tự hỏi liệu số phận mình sẽ ra sao trước sự phát triển chóng mặt của nó. Khi AI có thể sao chép kiến thức nhân loại, thậm chí mô phỏng cảm xúc con người, thì con người còn hơn AI ở cái gì? Rồi chúng ta sẽ nhận ra, AI có thể mang vô vàn ý niệm, nhưng nó không “sống” như cách con người thực sự sống. AI có thể sao chép ý nghĩa, nhưng không thể tạo ra một câu chuyện và trao ban một ý nghĩa. AI nhận lệnh từ con người và nó chỉ có thể thực hiện các lệnh theo các hình mẫu đã được thiết lập sẵn. Nhưng con người lại có khả năng vượt lên trên những hình mẫu ấy mà nhìn ra được những bí nhiệm của cuộc sống và dùng những bí nhiệm ấy như chất liệu để viết nên câu chuyện của đời mình. Rõ ràng, con người xét như những cá nhân và như một cộng đồng, không thể tồn tại như một con cừu đóng kín và bất động; con người luôn sống trong sự mở ra, ở đó con người có đôi mắt để nhận ra và trái tim để tác tạo.
[1] Nguyên tác: The Will to Meaning - Foundations and Applications of Logotherapy. Bản dịch tiếng Việt của Nhật Huyên, NXB Dân Trí & 1980Books in năm 2025.
[2] Michael Sandal, Phải trái đúng sai, NXB Trẻ, tr. 329.
Tên: Mạnh T. Nam
Email: tieumonmon@hotmail.com

Sự kiện Spiderum
/su-kien-spiderum
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất