[CTQ2] Ta không còn là ta nhưng ta vẫn cứ là ta- một cách nghĩ về nghịch lý con tàu của Theseus.
Đây dường như là một câu trả lời "ba phải" thường gặp khi con người muốn né tránh việc trả lời dứt khoát để bày tỏ chính kiến, tình...
Đây dường như là một câu trả lời "ba phải" thường gặp khi con người muốn né tránh việc trả lời dứt khoát để bày tỏ chính kiến, tình cảm, thái độ của mình trước những vấn đề nan giải của cuộc sống. Nhưng nếu đứng hẳn về một trong hai quan điểm mà tạo nên sự đối lập tuyệt đối với thái cực còn lại thì có lẽ cũng chưa thực đúng. Cách nhìn trung đạo, bất nhị này cũng không hẳn là một chân lý tuyệt đối mà chỉ là một cách suy ngẫm.
Khi đặt ra câu hỏi: "Liệu rằng ta có còn là chính ta, sau rất nhiều những thay đổi trong đời?" từ nghịch lý con tàu của Theseus, ta không thể không chạm đến vấn đề bản thể.
Bản thể là gì?
Để làm nền tảng cho sự suy ngẫm, ta cần xác định những nội hàm của khái niệm "bản thể". Những suy tư về bản thể là vấn đề lớn trong triết học, trở thành nội dung căn cốt trong triết thuyết của các triết gia lớn- từ Platon, Aristotle, Descartes, Spinoza, Hegel đến Heidegger, Sartre... Với tầm hiểu biết và sự nghiên cứu hạn hẹp của tôi ở hiện tại, tôi chỉ xin dựa trên một số triết lý phổ biến mà tôi nắm được.
Thứ nhất, "bản thể" có nghĩa là vật chất, một loại chất liệu. Vật chất là cái tồn tại nguyên thủy cấu thành các sự vật, hiện tượng. Đất sét là vật chất tạo nên các vật dụng gốm sứ. Không khí là vật chất tạo nên gió hay bão. Các hạt nguyên tử, hạ nguyên tử cũng là vật chất cấu thành vạn vật trong vũ trụ. Một bông hoa có thể tàn héo nhưng những chất hữu cơ tạo nên nó tiếp tục tồn tại. Một ngôi sao có thể bùng vỡ tứ tán nhưng những nguyên tử, phân tử làm nên nó tiếp tục tập hợp thành các tinh vân, các ngôi sao khác. Các hạt vật chất càng nhỏ thì càng có khả năng lưu tồn vĩnh cửu. Bản thể vật chất của mọi vật là cái mà kinh Vệ Đà gọi là "đại vũ trụ" hay "thực tại nền tảng". Từ cái thực tại nền tảng ấy, vạn vật sinh ra như là các hiện tượng, cái hình thức cụ thể biểu hiện cho vật chất và rồi các hiện tượng cũng mất đi, quay trở về thực tại nền tảng. Những con sóng, những hạt mưa, những đám mây... đều là các hiện tượng khác nhau mang bản thể là nước.
Thứ hai, bản thể được hiểu như là bản chất thường tồn của một vật. Đây là cách hiểu về bản thể trong triết học cổ điển thời Plato, Aristotle. Ở đây bản thể như là bản chất nội tại gồm các tính chất, đặc điểm xác định, không thay đổi, giữ cho một vật luôn là chính nó. Điều này khiến ta liên tưởng đến việc gọi tên nhằm cố định sự vật hiện tượng trong một khuôn khổ phổ quát, bằng những từ ngữ cụ thể. Từ "cái cây" làm hiện lên trong tâm trí ta hình ảnh một loài thực vật trên mặt đất, có rễ, thân và những chiếc lá màu xanh. Dù trong thực tại có rất nhiều các loại cây khác nhau nhưng những đặc tính chung mà từ "cái cây" gợi lên vẫn có cái gì chung nhất cho tất cả. Cái đặc tính chung đó có thể hiểu là một "ý niệm phổ quát" (theo Plato). Plato cho rằng mỗi cá thể người chỉ là bản sao không hoàn hảo của một Ý niệm Con Người phổ quát, hoàn hảo, vẹn nguyên. Khi chết đi, con người trở lại với thế giới của các Ý niệm. Aristotle vẫn đồng ý rằng có một bản chất thường tồn nhưng nó nằm trong bản thân mỗi con người. Mỗi cá thể người dường như là sự hình thức hoá, cụ thể hoá cho Ý niệm về Con Người, nhưng không có những con người cụ thể thì Ý niệm ấy chẳng thể được biểu hiện.
Thứ ba, bản thể là cái độc lập, thường tồn, bao gồm các thuộc tính nền tảng là thể tính và sản sinh các thuộc tính bất tất hay thể cách (tuỳ thể) phụ thuộc vào nó. Theo Descartes, bản thể là "một vật hiện hữu theo cách không cần đến bất cứ vật nào khác cho sự hiện hữu của nó." Điều đó có thể hiểu là, bản thể không cần phải thuộc về hay dựa vào một cái gì để tồn tại, nó là một tồn tại tự thân. Chẳng hạn, các chức danh giáo viên, bác sĩ, luật sư, nhà văn... không phải là bản thể của con người vì nó phải phụ thuộc vào con người, vì con người hành động trong các lĩnh vực cụ thể và tạo ra các giá trị tương ứng trong lĩnh vực đó thì các chức danh ấy mới tồn tại. Nhưng tự thân "con người" là một bản thể vì khi sinh ra, con người đã là con người mà không cần xét đến các yếu tố xuất thân, địa vị, chủng tộc, giới tính, tài sản... Bản thể không ngừng huỷ tạo các thể cách, chẳng hạn độ dài các cạnh của tam giác vuông có thể thay đổi, nhưng nếu mất đi thể tính thì "nó không còn là nó" nữa, như việc nếu tam giác vuông xuất hiện một góc tù hay bình phương độ dài cạnh huyền nhỏ hơn bình phương độ dài hai cạnh góc vuông thì đâu còn là "tam giác vuông" nữa! Xin mượn thêm ví dụ của Descartes: các trải nghiệm tinh thần bao gồm yêu, ghét, phán đoán và ý muốn là các thuộc tính bất tất (thường xuyên thay đổi), nhưng ý thức là thuộc tính nền tảng của mọi trải nghiệm tinh thần.
Nhưng cũng cần hiểu thêm rằng, theo Hegel, các thể cách (hay tuỳ thể) không chỉ là yếu tố phụ mà còn tham gia vào quá trình phát triển và hiện thực hoá bản thể. Điều này dẫn ta đến cách hiểu thứ tư, bản thể luôn vận động chứ không hoàn toàn tĩnh tại. Điều này dường như gặp gỡ với Kant khi ông cho rằng: "(Bản thể là) Một cái gì đó tương đối độc lập vẫn thường tồn qua nhiều sự thay đổi trong các tuỳ thể của nó." Bản thể là một quá trình nơi các tuỳ thể không ngừng được xác lập và rồi phủ định, nhưng qua đó mà chính bản thể được định vị. Tôi bỗng liên tưởng đến dòng sông và con người, ở điểm khởi nguồn hay tuổi trẻ, ta trải qua những uốn khúc bất an, những lựa chọn thử và sai nhưng càng về sau dòng sông càng bình tâm khi nhìn thấy biển và ta dần ổn định yên vị ở tuổi già. Chính hành trình lựa chọn và đổi thay ấy mà con người ta trưởng thành hơn- "trở thành" một điều gì đó đầy đặn hơn chính mình ở khởi điểm.
Từ đây, khi những cách hiểu khác nhau được nêu ra, vấn đề "tồn tại hay không tồn tại", một cái gì bất biến, được đặt ra từ đầu lại nổi lên. Nhưng ta cũng mơ hồ nhận ra, có những điều luôn đổi khác và cũng có những điều bền bỉ tồn tại, như những mùa hoa đến rồi đi nhưng mặt đất vẫn rộng rãi hiền từ.
Con người là một tồn tại khả biến
Nếu ta nói rằng, có một chân lý không bao giờ thay đổi đó chính là vạn vật luôn thay đổi, thì chính sự biến đổi, chuyển hoá không ngừng cũng là yếu tính của vạn vật tồn tại trên thế gian này. Con người không ngừng bị đặt vào những cảnh huống khác nhau, phải đối mặt với những vấn đề khác nhau trong cuộc sống đầy tai ương và bất trắc. Để sinh tồn, ta buộc phải thay đổi. Để vượt qua một vấn đề cũ, ta phải là một con người mới, mang những thói quen mới, cách nghĩ mới, mục tiêu mới. Và khi đã vượt qua một bài toán nan giải của số phận, khi đã tiếp thu nhiều tri thức, cọ xát với nhiều hoàn cảnh, ta cũng đổi khác đi, cách ta đối diện với khó khăn đầu đời khác với cách ta nhìn nhận thất bại khi đã đối đầu với nhiều mất mát, có khi ta thay đổi hẳn về thế giới quan, tính cách, tư tưởng. Các tuỳ thể được xác lập và thay thế trong hành trình sống của một con người đồng thời cũng tạo ra lực đẩy cái bản thể ban đầu đi đến chỗ tựu thành những đặc tính khác với chính nó ở khởi điểm- giống như một sự thay đổi về "lượng" dẫn đến sự quá độ về "chất". Sự lựa chọn và hành động của ta đã làm nên con người của chính ta, nói như Sartre.
Mỗi con người là tồn tại luôn bị trói buộc vào thời gian. Thời gian mà mỗi cá nhân dùng để nhận thức về cuộc đời mình, hoài niệm về quá khứ hay dự phóng tương lai cho mình là thời gian tuyến tính bắt đầu khi ta sinh ra và kết thúc khi ta chết đi. Con người không thể đứng ngoài dòng chảy thời gian. Mỗi khoảnh khắc và mỗi "ta" trong những khoảnh khắc ấy là một điểm riêng biệt, không trùng lặp với bất kì điểm nào khác trên trục thời gian. Nhiều quan điểm cho rằng "cái Tôi" không phải là "bản thể" thường hằng, tức những gì ta nhận thức về mình như một cá thể độc lập, nguyên vẹn, nhất quán, tách biệt với các cá nhân khác dường như là ảo tưởng. Quan điểm của David Hume có sự gặp gỡ với thuyết "vô ngã" của Phật giáo, cả hai đều phát biểu rằng, không có một chủ thể cố định nào làm trung tâm và sở hữu tất cả những tri giác, ký ức, cảm xúc, tư duy... vốn thay đổi không ngừng.
Cơ thể của ta không thể kháng cự lại quy luật của sự phát triển và sự hư hoại mà thời gian gắn vào mình. Ta đã ở một vị trí khác mình trước đó khi hồi hương về quá khứ. Một người có thể từng rất chú trọng điểm số, thành tích trong thời học sinh của mình thậm chí đặt cược mạng sống của mình vào đó, nhưng về sau có thể dửng dưng với những điều đó và tự trào về mình. "Cái tôi" từng hạnh phúc trên bục vinh danh đâu phải là "cái tôi" bất mãn sau này mà người đó sống chung. Những phẩm chất mà ta từng khẳng định như là điều căn cốt làm nên "cái tôi" trong quá khứ có thể bị phủ định hoàn toàn bởi "cái tôi" trong tương lai, thậm chí ta cảm thấy ngớ ngẩn, nhục nhã về những gì "đã từng". Ta thường mong muốn được người khác công nhận, nhưng "cái tôi" được công nhận ấy đâu còn là chính ta của sau này, sự công nhận ở một thời điểm có thể trở thành sự cầm tù. "Cái tôi" mà ta đem ra để tranh cãi với người khác và khẳng định rằng "tôi đúng" đâu phải là cái tôi nhất quán của ta khi mà một lúc nào đó ta có thể nhìn lại và nhận ra cái sai của mình...
Một bản thể đặt cơ sở trên cái "tôi tư duy" có thể bị lung lay. Ta là những gì ta ý thức về mình. Khi đó ta vừa là chủ thể quan sát vừa là khách thể của sự quan sát- bao gồm các đặc tính, ký ức, giác quan, cảm xúc... là đối tượng của sự quan sát. Ở mọi điểm trên trục thời gian cuộc đời, ta vẫn ý thức về mình trong quá khứ với bản thân ở thực tại là một quá trình thay đổi của một cấu trúc tinh thần duy nhất. Nhưng từ đây, có thể có hai vấn đề xuất hiện, thứ nhất, nếu "tôi" mất đi trí nhớ hay rơi vào trạng thái điên loạn, không còn khả năng tự ý thức về mình thì "tôi" có còn là "tôi"?; nếu thời gian làm cho cái "tôi ý thức" thay đổi, tức chủ thể quan sát thay đổi, thì liệu khách thể- các đặc điểm từng có nơi ta, có được nhận thức một cách khác đi? Nếu cái "tôi tư duy" không nhất quán như thế thì làm sao ta có thể khẳng định chính mình là một tồn tại nhất quán?
Theo tôi, thứ nhất, nếu sự tự ý thức bị vô hiệu hoá thì con người không còn là chính mình nữa. Sự hiển hiện của một thân xác người khi ấy là một "kẻ xa lạ", trắng xóa về kí ức và trải nghiệm sống. Những người thân quen khó lòng tự thuyết phục mình rằng con người đã mất đi ý thức và trí nhớ ấy vẫn có thể quay lại tương tác với họ một cách thân tình như bình thường. Những người rơi vào tình trạng điên loạn dường như không phân biệt mình với người khác, không có ý niệm về đạo đức, xã hội, danh dự cá nhân, quá khứ hay tương lai...
Thứ hai, nếu cái tôi ý thức thay đổi theo thời gian thì đối tượng- cái "tôi" bị quan sát vẫn không trở nên xa lạ với cái "tôi" ở hiện tại. Tức là, cấu trúc của cái "tôi" hiện tại vẫn ý thức được mọi sự thay đổi vẫn là "của mình" và những thay đổi là các bước chuyển dẫn đến sự có mặt của "tôi" ở hiện tại. Sự "nhất quán" của bản thể không phải là cái gì tồn tại từ đầu đến cuối mà là một quá trình diễn tiến liên tục mà ta có thể tự nhận diện ở mình. Nhờ một ý thức xuyên suốt mà ta bình tâm nhận ra, "ta vẫn là ta đấy thôi, sau rất nhiều thay đổi."
Những giá trị bất biến
Đức Phật khi thành đạo đã nói rằng: "Ta lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, ta tìm mãi mà chẳng gặp kẻ làm nhà...". Không chỉ lang bạc một đời mà "ta" đã trải qua muôn kiếp sống, nhưng "ta" vẫn là "ta" đấy thôi, một cái "ta" không nhà đi khắp các cõi, tử sinh liên miên. Có sự tồn tại của một thần thức, tàng thức (hay A lại đa thức) là cái bản tính cốt lõi, một dòng chảy xuyên suốt đi qua các kiếp sống (hay sự tái sinh, sự biểu hiện). Theo Đức Phật, cái "thức" này không mất đi mà vận động, đổi thay theo nghiệp lực của mỗi kiếp sống. Cái "ta" được đào luyện qua mỗi lần tái sinh, khi đã được gột rửa cho thanh sạch, trở nên hoàn hảo đến tận cùng thì có thể rời bỏ sự luân hồi mà thành Phật. Như vậy, ta vẫn là ta qua muôn kiếp sống, huống chi ta trong kiếp hiện tồn.
Từ đây, có người sẽ đặt câu hỏi, nếu việc ý thức về các kiếp sống khác nhau hay một cái thần thức nhất quán là bất khả với ta thì làm sao ta khẳng định được chúng có tồn tại? Đúng là ta không thể nhìn thấy và khẳng định sự tồn tại của một thần thức tái sinh qua muôn kiếp sống, bởi vì ta chưa giác ngộ như Đức Phật. Giác ngộ không phải là điều gì huyền ảo, cao siêu mà thực chất là một sự "nhớ lại" cái quá trình thăm thẳm ta đã đi qua nhưng do sự "vô minh", sự chú tâm quá mức vào một "cõi tạm" mà ta quên đi. Khi ta sắp buông ra một lời nói cay độc với ai đó, ta chợt nhớ lại ai đó đã nhắc nhở ta về sự tha thứ, yêu thương, ta nhớ lại người mà ta sắp xúc phạm đã từng cưu mang ta, để rồi ta "phanh" lại hành động của mình, đó chính là sự giác ngộ vậy. Cái bản thể tồn tại nơi ta trong kiếp sống này dù có trải qua bao nhiêu thay đổi vẫn là ta của thuở sơ sinh nhưng đã mang thêm những nghiệp lực khác, tốt hơn, hay xấu hơn, do quá trình sống của ta tạo tác nên.
Điều này có điểm tương đồng với quan niệm của Platon về thế giới của các Ý niệm. Mỗi con người ở thế gian này đã bước ra từ một thế giới khác, thế giới của các lý tưởng toàn bích, vẹn nguyên- có thể nói rằng ta đã "sa ngã" vào thế giới này, trở thành những bản thể không hoàn hảo. Sống là quá trình mà cái bản thể hữu hạn của ta dần tự khai mở để tìm về cái bản thể uyên nguyên, tuyệt đối đó. "Ta" vẫn không thay đổi dù thời gian có bào mòn thân xác ta, có làm mờ những kí ức của ta, bởi "ta" hiện diện ở đây chỉ là một hiện tượng của "ta" rộng lớn hơn. Mỗi bản thể hữu hạn chỉ là những ảo ảnh mà cuối cùng sẽ trở về cái bản thể hằng tồn đích thực của mình. Và ở cái cội nguồn ấy, "ngã" không phân biệt với cái "tha nhân", bởi "tha nhân" cũng là một trong những biểu hiện của dòng tồn tại vô biên, vô tận mà chính ta thuộc về.
Ở đây, ta trở lại với băn khoăn về bản thể của những kẻ điên loạn và bản thể của chính ta khi ý thức ta, bằng một cách nào đó, được lưu chuyển vào thân xác khác, hay thậm chí, một bộ nhớ điện tử nào đó. Tâm thức điên loạn là một trạng thái tinh thần bị cái vô thức thống trị. Ý thức của người đó không còn làm chủ thân xác nữa mà bị đẩy xuống hàng thứ yếu, bị giam giữ bên dưới những xung lực bản năng, kí ức từng bị vùi sâu nay trở thành kẻ cầm cương. Tôi không có thẩm quyền luận bàn thêm về vấn đề này khi đã có phân tâm học của Freud, nhưng tóm lại, tôi muốn nói rằng, cái thần thức vẫn còn dù con người trở nên hoàn toàn điên dại. Họ rơi vào trạng thái lãng quên sâu hơn chúng ta, quên đi chính họ ở kiếp này, quên đi chính họ ở từng tồn tại trong thế giới khác, từng thuộc về một bản thể rộng lớn hơn. Điều đó không có nghĩa là họ đánh mất hoàn toàn bản thể của chính mình.
Còn khi ý thức ta, hay trí nhớ của các cơ quan, đặc biệt là não bộ, được lưu trữ ở một nơi khác thân thể ta thì ý thức ấy cũng chỉ là những dữ kiện tạm thời, không thể lưu trữ một dòng chảy miên viễn của linh hồn. Không có một phương cách nào bất tử hoá con người nhờ việc "tải lên" những dữ liệu của tinh thần vào một cỗ máy. Dù cỗ máy ấy có chức năng suy nghĩ và nói lên những gì gần giống như một thực thể sống thì đó chỉ là một sự sao chép chứ không phải một sự sống, cỗ máy ấy vẫn chỉ là sản phẩm của một sản phẩm hữu hạn của tự nhiên là con người. Còn cái "bản thể" của cá nhân hiến sinh "ý thức hữu hạn" của mình cho cỗ máy ấy có lẽ đã chu du sang một thế giới khác hay trở về với "quê hương" của mình từ bao giờ.
Nếu đặt con người trong dòng thời gian tuyến tính, ta nhận ra sự thay đổi là tất yếu. Nhưng nếu đặt con người vào "thời gian vòng tròn" của tự nhiên", trả khái niệm bản thể về cõi phi thời gian của nó thì ta biết, chẳng có sự đổi thay nào cả. Điều này được Schopenhauer phát biểu bằng cách đặt tồn tại cá nhân, cá thể vào trong sự tồn tại của giống loài. Mỗi cá nhân là một "ý niệm người" khao khát được bấu víu vào một hiện tượng để tồn tại. Nhưng chỉ có chủng loại mới trường tồn vô tận, ước nguyện vô tận và khổ đau vô tận. Ý chí của chủng loại hoang phí những sinh mệnh cá nhân để thực hiện mục đích tồn sinh của nó. Nói một cách đơn giản, cái rung động thầm kín của tình yêu trong trái tim "tôi" hôm nay không phải là cái gì mới mẻ của riêng "tôi", đó là cách mà chủng loại đã sắp đặt từ ngàn đời để đẩy con người đến chỗ tạo tác sự sống mới, lưu tồn mọi hoan lạc và khổ đau của "con người" qua một sinh mệnh khác. Một con người sinh ra và mất đi lại được nối tiếp bởi sự sinh ra và mất đi của một con người khác, cứ thế đến vô tận. Cái vật chất tạo nên "tôi" cũng là cái vật chất đã, đang và sẽ tạo nên "người khác". Một khoảnh khắc buồn vui của "tôi" hôm nay hàm chứa nỗi buồn vui của vô tận kiếp người đã sống trước tôi. Những đấu tranh và bất hạnh của "tôi" hôm nay là cái mà mọi con người phải trải qua trong đời sống của mình. Vậy thì, "tôi" hiện hữu trong cuộc đời "kẻ khác", "tôi" là "kẻ khác" và "kẻ khác" cũng là "tôi", cùng là những sinh mệnh cô đơn gánh vác ước vọng và khổ đau muôn thuở của giống loài.
Thời gian chỉ là cái mà những cá thể người tất tử tưởng tượng ra để đo lường sự sống của mình, của cái thể xác và tinh thần mà ta gọi là "tôi". Nhưng nếu nhìn rộng hơn phạm vi tồn tại của cái "tôi" ấy thì thời gian chỉ là sự ảo tưởng, nó là sự xoay vòng liên tục của các hiện tượng khiến ta ngỡ như có gì đó thực sự thay đổi hay mất đi mà không ý thức được rằng mọi thay đổi chỉ là một điểm trên đường tròn, dẫu đang ở điểm nào thì khoảng cách đến cái tâm của đường tròn đó vẫn như nhau. Cái tâm điểm ấy chính là bản thể hằng tồn của mọi tồn tại, là cái quy luật chi phối tất cả chúng ta xoay quanh nó, trong từng giờ phút của cuộc đời, trong từng kiếp sống của cuộc luân hồi liên miên. Suy tư hạn hẹp của tôi, chỉ có thể quẩn quanh ở những đường tròn...
Câu hỏi hay nhất là câu hỏi không có đáp án cuối cùng. Vì nó mở ra nhiều khả năng, nhiều lối nghĩ và cho phép con người đối thoại với nhau chứ không phải bài trừ nhau. Một xã hội văn minh vận hành bằng nguyên lý bổ sung chứ không phải nguyên lý loại trừ. Nghịch lý con tàu của Theseus được đặt ra dường như không phải để tìm kiếm câu trả lời mà khiến ta phải ngẫm nghĩ về cách sống của chính mình. Làm sao để ta vừa đón nhận, học hỏi, thay đổi và trưởng thành vừa không trở nên xa lạ với chính mình?
Tham khảo:
Tên: Tràm
Email: [email protected]

Sự kiện Spiderum
/su-kien-spiderum
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

