Bước đầu xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam qua hoạt động của đội Hoàng Sa - Bắc Hải thời chúa Nguyễn (Thế kỷ XVII - XVIII)
Trong không gian biển đảo Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước bởi vai trò chiến...
1. Mở đầu

Trong không gian biển đảo Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước bởi vai trò chiến lược về phương diện chủ quyền, địa - chính trị và an ninh quốc gia. Mặt khác, Hoàng Sa và Trường Sa nằm ngay giữa Biển Đông, từ đây có thể kết nối các tuyến hàng hải và thị trường khu vực; thuận tiện khai thác các nguồn tài nguyên biển, điều đó mang ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế, giao thương và giao lưu quốc tế. Kể từ khi phát hiện và xác lập quyền quản lý hai quần đảo, xuyên suốt lịch sử, các triều đại của Việt Nam luôn duy trì sự hiện diện và thực thi chủ quyền một cách liên tục, bảo vệ lãnh thổ Hoàng Sa và Trường Sa trên thực tế.
Tuy nhiên, trải qua những biến động của lịch sử và chính trị khu vực trong thế kỷ XX, Hoàng Sa và Trường Sa luôn bị nhiều thế lực để ý, cố gắng khẳng định quyền kiểm soát đối với hai quần đảo. Minh chứng cho điều này là các hoạt động xâm lấn, khai thác, ngụy tạo bằng chứng chủ quyền và thậm chí là chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa của Trung Quốc cùng một số quốc gia khu vực khác. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam luôn nhất quán trong chủ trương xây dựng, phát triển đất nước gắn liền với nhiệm vụ gìn giữ chủ quyền lãnh thổ. Vì vậy, khẳng định và bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn là một phần trọng yếu trong chủ trương của đất nước.
Trước xu hướng phát triển kinh tế đa ngành và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước nhận thức rõ rằng cần phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ và khai thác từ nhiều nguồn lợi, trong đó bao gồm quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên biển. Điều đó đặt ra một vấn đề quan trọng: Việc huy động và sử dụng các nguồn lực kinh tế biển yêu cầu những nghiên cứu về quá trình xác lập chủ quyền, khai thác, quản lý và bảo vệ biển đảo của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy, cần phải minh chứng một cách thuyết phục cơ sở lịch sử và pháp lý về quyền chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông. Bước đầu xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa của người Việt trên thực tế đã diễn ra dưới sự chỉ đạo của chính quyền Đàng Trong (Thế kỷ XVII - XVIII).
2. Sự hình thành chủ trương hướng biển và mở rộng, bảo vệ chủ quyền biển đảo của chính quyền Đàng Trong
Đàng Trong là một chính thể từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam do các chúa Nguyễn cai trị, tồn tại và phát triển từ đất Thuận Hóa (nay là các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) trở vào Nam. Trong lịch sử, vùng đất này vốn là địa bàn sinh sống của người Chăm - chủ nhân của vương quốc Champa, từng là cường quốc kinh tế biển tại Đông Nam Á. Từ những thế kỷ đầu Công nguyên, ưu thế về biển của Champa đã được cổ sử Trung Quốc ghi lại: Lương thư chép, "Đất ấy dài rộng độ sáu trăm dặm, thành cách biển một trăm hai mươi dặm, cách địa giới Nhật Nam hơn bốn trăm dặm, phía bắc tiếp giáp với quận Cửu Đức. Biên giới phía nam, đường thủy bộ đều hơn hai trăm dặm"; Tùy thư ghi rằng, "Nước ấy dài rộng mấy ngàn dặm, đất nhiều hương mộc, vàng, ngọc, sản vật đại để giống như Giao Châu". Nếu xét thống kê hiện đại, Việt Nam có đường bờ biển dài 3260 km, tính trung bình cứ 100 km2 đất liền thì có 1 km bờ biển, là nước có tỉ lệ chiều dài bờ biển so với đất liền thuộc loại cao nhất thế giới trong khi đó trên thế giới trung bình cứ 600 km2 diện tích đất liền mới có 1 km bờ biển. Với những điều kiện địa lý phù hợp để phát triển kinh tế biển, chúa Nguyễn Hoàng đã đặt mục tiêu xây dựng Đàng Trong trở thành một quốc gia hải thương.
Tư tưởng của Nguyễn Hoàng cũng trở thành quyết sách phát triển Đàng Trong cho các đời chúa Nguyễn sau đó. Trên nền móng cảng thị cũ của Champa, các chúa Nguyễn đã phục hồi và tái thiết một hệ thống cảng biển miền Trung nhộn nhịp và phát triển: "các thương cảng Thanh Hà (Huế), Nước Mặn (Bình Định) vừa là những thương cảng phát triển độc lập vừa nằm trong mối quan hệ có ý nghĩa tương hỗ cho Hội An. Trên thực tế, với sự dự nhập, hỗ trợ bởi các trung tâm sản xuất và khai thác, các thương cảng miền Trung đã tạo nên một hệ thống liên kết với vai trò điều phối trung tâm của cảng quốc tế Hội An". Song, phát triển kinh tế biển đồng nghĩa với việc phải kiểm soát được các vùng biển, đảo quan trọng. Chính vì vậy, ngay từ khi lập quốc, chính quyền Đàng Trong đã đặt ra yêu cầu mở rộng, kiểm soát và bảo vệ chặt chẽ chủ quyền biển đảo. Điều đó thể hiện qua sự phát triển hải quân Đàng Trong - đóng vai trò bảo vệ các hải cảng, các đoàn thuyền buôn và luôn thường trực ngoài cửa biển. Theo ghi chép của nhà hàng hải người Ý Cristoforo Borri (1583 - 1632), đến Đàng Trong năm 1621: "Mỗi thuyền [Đàng Trong] có súng đại bác và nhiều súng musqueton [một loại súng trường]. Và người ta sẽ không lấy làm lạ khi biết chúa Đàng Trong luôn luôn có tới một trăm thuyền chiến có đủ súng ống và nghiêm chỉnh nghênh chiến…"; còn theo nghiên cứu của học giả Li Tana: "Về đơn vị quân đội dưới thời Nguyễn năm 1653: Hai cơ tả trung và hữu trung, mỗi cơ 14 thuyền, đều 700 binh. Nội thủy 58 thuyền, 6.410 quân; 4 đội tiền thủy, hậu thủy, tả thủy, hữu thủy mỗi đội có 5 thuyền và quân; 8 cơ tả nội bộ, hữu nội bộ, tiền nội bộ và hậu nội bộ, tả súng, hữu súng, tiền súng hậu súng, mỗi cơ có 6 thuyền, với 2.100 quân...".
Tuy nhiên, hải quân Đàng Trong thời kỳ đầu chủ yếu giữ vai trò phòng thủ ven bờ, tuần tra các cửa biển và bảo vệ hệ thống cảng thị. Khi nhu cầu phát triển kinh tế biển ngày càng mở rộng, cùng với sức ép quân sự từ họ Trịnh ở phía Bắc và sự cạnh tranh của các thế lực khu vực trên Biển Đông, chính quyền Đàng Trong buộc phải hướng đến việc kiểm soát không gian biển xa bờ - các tuyến hàng hải quốc tế. Ngoài ra, nắm giữ các đảo, quần đảo ngoài khơi không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn giúp bảo đảm về mặt an ninh trong bối cảnh nhiều đoàn thuyền chiến châu Âu, hải tặc khu vực thường xuyên đi lại trên các vùng biển gần Đàng Trong. Thực tiễn lịch sử đó đã thúc đẩy chính quyền chúa Nguyễn xây dựng thêm các lực lượng tuần tra, đi biển xa bờ với nhiệm vụ định kỳ tại các quần đảo giữa Biển Đông. Có thể khẳng định, tư duy quản lý và mở rộng lãnh thổ biển của các chúa Nguyễn đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam, người Việt đã tổ chức các hoạt động xác lập, bảo vệ chủ quyền được chỉ đạo trực tiếp bởi nhà nước tại các vùng biển đảo xa bờ.
3. Đội Hoàng Sa - Bắc Hải và hoạt động xác lập chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa

Thông tin về "Bãi Cát Vàng" trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư.
Bản đồ Việt Nam bao gồm các đảo và quần đảo ngoài Biển Đông đã xuất hiện từ rất sớm trong tập sách "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư" do Đỗ Bá Công (tự Đạo Phủ) vẽ theo lệnh của chúa Trịnh vào thời vua Lê Hy Tông, năm Chính Hòa thứ 7 (1686). Quyển I của tập sách là bản đồ vẽ địa lý, đường xá từ Thăng Long đến Chiêm Thành, trong đó ghi rõ địa danh "Bãi Cát Vàng" - một cách gọi của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời xưa, bên cạnh những tên gọi khác như Hoàng Sa châu, Đại Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa… Thậm chí, trong bản đồ tồn tại các ghi chú về hoạt động của thuyền Việt Nam tại vùng quần đảo này, cụ thể: "Mỗi năm đến tháng cuối đông [chúa Nguyễn] đưa 18 chiếc thuyền đến đó [Bãi Cát Vàng] nhặt vàng bạc".

Thông tin về "Bãi Cát Vàng" trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư (Vị trí 7C).
Ngoài ra, nhà sư Thích Đại Sán (1633-1704) khi tới Thuận Hóa theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) đã ghi chép nhiều điều về Đàng Trong. Tác phẩm Hải ngoại kỷ sự của ông có chép một đoạn như sau: "…có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ đông bắc qua tây nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thẳm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là "Vạn Lý Trường Sa", mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào, dẫu không tan nát, cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tấp vào". Những thông tin trên cho thấy, ngay từ những đời chúa Nguyễn đầu tiên, chính quyền Đàng Trong đã cho thuyền ra vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để thực hiện các hoạt động thăm dò, khai thác và xác lập chủ quyền. Danh tính của các đội thuyền này dần được xác định là hải đội Hoàng Sa - Bắc Hải, được chúa Nguyễn thành lập với nhiệm vụ tuần tra và quản lý các đảo, quần đảo xa bờ.

Danh nhân Lê Quý Đôn
Nhà bác học, danh nhân Lê Quý Đôn (1726-1784) trong thời gian làm quan tại Thuận Hóa đã nghiên cứu và cho ra đời tác phẩm Phủ biên tạp lục (1776) - bộ sách ghi lại chi tiết tình hình kinh tế, xã hội của xứ Đàng Trong. Về các quần đảo ngoài Biển Đông và hoạt động của đội Hoàng Sa - Bắc Hải, ông chép như sau:
"Phủ Quảng Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Bên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc Xà Cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là trắng bông, giống đồi mồi mà nhỏ, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm, tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bên bãi, lấy về dùng vôi xát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước, cua đồng cao sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.
Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà soi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ vỏ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Lượm được nhiều ít không nhất định, cũng có khi về người không. Tôi đã xem sổ của cai đội cũ là Thuyên Đức hầu biên rằng: năm Nhâm Ngọ lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.100 cân thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỷ Sửu đến năm Quí Tỵ, 5 năm ấy mỗi năm chỉ được mấy tấm đồi mồi, hải ba. Cũng có năm được khối thiếc, bát sứ và 2 khẩu súng đồng mà thôi. Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quí ít khi lấy được".
Bên cạnh đó, Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: "Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người…". Như vậy, đội Hoàng Sa - Bắc Hải đã hoạt động trong một khoảng thời gian dài (ít nhất từ năm 1631); luôn được triển khai có tổ chức, tuyển chọn nhân lực và chuẩn bị vật lực đầy đủ.
Dựa trên những tư liệu lịch sử mà có thể chắc rằng đội Hoàng Sa phụ trách quản lý vùng quần đảo Hoàng Sa ngày nay. Đội Bắc Hải được lập thêm để tiến ra "xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên", lại do đội Hoàng Sa kiêm quản, nhiều khả năng đội Bắc Hải phụ trách quản lý hệ thống biển đảo phía Nam so với đội Hoàng Sa kiểm soát phía Bắc. Trên cơ sở đó, rất có thể "xứ Bắc Hải" được đề cập trong Phủ biên tạp lục chính là đề cập tới không gian của quần đảo Trường Sa hiện nay. Người ở thời kỳ trước chưa có sự phân định rõ ràng về hai quần đảo này mà thường hình dung thành một cụm các đảo lớn với tên gọi "Vạn Lý Trường Sa, Đại Hoàng Sa…".
Các hoạt động của đội Hoàng Sa - Bắc Hải không chỉ tuần tra, thu lượm nhỏ lẻ các hiện vật, khám xét tàu đắm… mà đã thực sự khai thác tài nguyên, sản vật biển để phục vụ đời sống cá nhân, đóng góp cho quốc gia. Theo như Phủ biên tạp lục, những vật phẩm mà đội Hoàng Sa - Bắc Hải mang về bao gồm khoáng sản, hải sản, hiện vật đa dạng… đều được chính quyền cân đo, thu nạp và bàn giao lại cho thuyền viên. Số hàng hóa đó có thể đem bán tùy ý, chế tác vật trang trí tinh xảo hoặc chế biến món ăn. Cần phải nhấn mạnh rằng, các hoạt động khai thác trên không mang yếu tố tự phát mà đã được sự cho phép của chính quyền Đàng Trong, được nhà nước cấp giấy tuyển quân chính thức cũng như hỗ trợ vật tư, phương tiện ra khơi. Có thể thấy rằng, các chúa Nguyễn đã thực sự đặt mối quan tâm đối với Hoàng Sa và Trường Sa từ những ngày đầu lập chính quyền; sự hiện diện và các hoạt động của hải đội Hoàng Sa - Bắc Hải chính là bước khởi đầu cho quá trình xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của người Việt Nam.
4. Kết luận
Tìm hiểu quá trình xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa dưới thời các chúa Nguyễn đã cho thấy tư duy hướng biển mạnh mẽ của người Việt, coi không gian biển đảo là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia. Sự thành lập hải đội Hoàng Sa - Bắc Hải đánh dấu mốc quan trọng khi dân tộc Việt Nam bước đầu khẳng định chủ quyền thực tế đối với vùng hải đảo rộng lớn ngoài Biển Đông; qua đó bảo đảm an ninh, gìn giữ lợi ích kinh tế và duy trì vị thế địa - chính trị của mình trong khu vực. Mặc dù các phương thức xác lập và bảo vệ chủ quyền thời chúa Nguyễn còn hạn chế do bối cảnh lịch sử; song chính quyền Đàng Trong vẫn đạt được những thành tựu đáng kể khi thiết lập cơ chế quản lý biển đảo có tổ chức, dựa trên các hoạt động khai thác, tuần tra định kỳ của hải đội Hoàng Sa - Bắc Hải. Những hoạt động thực thi và bảo vệ chủ quyền diễn ra liên tục bởi các chúa Nguyễn là chứng cứ lịch sử - pháp lý giá trị, là nền tảng vững chắc để Việt Nam khẳng định và bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên Biển Đông.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

