Om là một biểu tượng tiếng Phạn nó định nghĩa là một từ dùng trong lời cầu nguyện “Om Mani Padme Hum” trong kinh tụng của Phật giáo Tây Tạng cũng như Ấn Độ giáo, là biểu tượng tôn giáo chính ở Ấn Độ.


Chữ Om hay AUM viết theo mẫu Devanagari là ओम्, Trung Quốc viết là 唵, và có kí hiệu ༀ trong Tây Tạng

Các biểu tượng chữ Om cũng được viết theo nhiều cách khác nhau:




AUM : Bắt đầu phát âm chữ A từ cuống cổ, tiếp đó uốn lưỡi đọc chữ U và chấm dứt âm chữ M bằng cách khép môi lại. 


Chữ AUM có 100 ý nghĩa khác nhau và là một từ tối cao và từ tạo ra được mọi điều.


Các lớp ý nghĩa trong chữ Om:

– Tịnh hóa Thân, Khẩu, Ý

– Chuyển hóa Tham, Sân, Si

– Thực hành Giới, Định, Tuệ


Xét về sự huyền bí của âm thanh, thì những người theo Phật Giáo nói chung và các sư nhà Phật rất xem trọng sự thực hành âm thanh OṂ. Bởi vì âm thanh này là tinh túy của tất cả các âm thanh chú ngữ khác, do đó trước khi đọc tụng thần chú thì việc luyện tập sao cho thành tựu âm thanh OṂ trở thành yếu tố tiên quyết.




Ở Tây Tạng, bạn sẽ thấy biểu tượng chữ Om có ở khắp nơi. Từ chùa chiền linh thiêng cho đến đồ trang sức hay các vật trang trí trong nhà. Người Tạng tụng Om Mani Padme Hum mọi lúc mọi nơi, khi làm việc đồng áng, khi đi Kora (thiền hành), khi muốn trì tụng cho vòng Bồ Đề hay tượng Phật trong nhà mình, hay khi cảm thấy hiểm nguy sắp đến….


Om mang ý nghĩa tinh thần cũng như vẻ đẹp thẩm mỹ bởi vì nó thể hiện một dòng chảy đẹp mắt với những đường cong như đang chuyển động lên trên và xuống dưới, đại diện cho một chu kỳ đầy đủ của sự sống và cái chết. Các thế kỷ kinh sách tôn giáo cũ của Ấn Độ giáo xác định Om là nguồn gốc và bản chất của sự hiện hữu của toàn bộ vũ trụ. Chữ Om được tôn kính như là âm thanh đầu tiên của cuộc sống là một thiết kế đáng kính được sử dụng bởi nhiều nghệ sĩ trên thế giới.


Tiếng OṂ là một âm thanh nhiệm mầu. Âm thanh này chứa đựng một sức cuốn hút kỳ lạ và đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhạc sĩ, nhà văn trong việc sáng tác của mình. Nhà văn người Đức Hermann Hesse, trong tác phẩm “Siddhartha” nổi tiếng, mà bản dịch tiếng Việt đầu tiên đặt tên là “Câu chuyện dòng sông”, đã dành trọn một chương để nói về tiếng OṂ. Trong chương này Vesudeva bảo Siddhartha lắng nghe âm thanh của dòng sông “Và khi Siddhartha chăm chú lắng nghe dòng sông, chàng nhận ra đó là tiếng hát của muôn ngàn chất giọng. Khi mà chàng không còn chú tâm đến nỗi đau đớn hay tiếng cười đùa, khi mà chàng cởi trói tâm hồn mình ra khỏi bất kỳ một âm giọng riêng biệt nào, để rồi không còn đắm chìm vào đó nữa