Phổ cổ Hà Nội thời Pháp thuộc
Phổ cổ Hà Nội thời Pháp thuộc
1. Đặc điểm chung của hình thái kinh tế - xã hội Việt Nam tiền thuộc địa
Lý thuyết về sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội xuất phát từ các lý luận triết học của Karl Marx và Friedrich Engels. Theo đó, cho đến thế kỷ XIX, lịch sử thế giới đã trải qua 4 hình thái kinh tế - xã hội, lần lượt là: Công xã nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến và Tư bản chủ nghĩa. Marx và Engels cũng đặt vấn đề rằng trước những thiếu sót của tư bản chủ nghĩa trong việc xóa bỏ mâu thuẫn giai cấp, ổn định trật tự xã hội, việc nhân loại tiến đến một hình thái kinh tế - xã hội mới là hoàn toàn cần thiết.
Tuy nhiên, lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội trên vốn được tổng kết qua góc nhìn của Marx và Engels về lịch sử châu Âu. Nếu đặt sự so sánh với châu Á thì có thể thấy rõ nhiều sự khác biệt quan trọng: Thứ nhất, không phải nhà nước nào ở châu Á cũng trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ do tư tưởng, xã hội Đông - Tây mang những đặc trưng riêng; Thứ hai, thời kỳ Phong kiến trong bối cảnh châu Âu được hiểu đúng nghĩa là “phong tước kiến địa” (Feudalism), các quý tộc và lãnh chúa có tước vị và kiểm soát các vùng đất riêng trong một lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, tại châu Á, điều này không hoàn toàn tương thích khi phần lớn các quốc gia tại đây có xu hướng xây dựng một nhà nước tập quyền chuyên chế, tạo thành một khối thống nhất sức mạnh, có thể thấy rõ qua những trường hợp của Trung Quốc, Ả Rập… Việt Nam cũng là một ví dụ tương tự như vậy khi có những tiếp nhận, mô phỏng hình mẫu Trung Hoa về cách xây dựng chính quyền nhà nước. Để phân biệt rõ, nhiều học giả đã có cách diễn giải, phân biệt rõ thành phong kiến phương Tây và phong kiến phương Đông, song vẫn còn có sự tranh cãi bởi lịch sử phát triển hình thái kinh tế - xã hội châu Á hoàn toàn khác so với châu Âu. Kết quả, các nhà sử học đã đưa ra thuật ngữ “Phương thức sản xuất châu Á” thay thế cho thời kỳ Chiếm hữu nô lệ và Phong kiến theo tư tưởng của Marx - Engels. Những đặc trưng của “Phương thức sản xuất châu Á” có thể được tổng kết qua một số điểm quan trọng sau: Về quan hệ kinh tế, chế độ sở hữu tối cao của nhà nước (vua) về đất đai thiết lập trên cơ sở công xã nông thôn (quyền thu sản phẩm cống nạp của nông dân công xã); Về quan hệ giai cấp, trên cơ sở chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, xuất hiện hai giai cấp cơ bản là quý tộc thu cống phẩm và nông dân công xã nộp cống phẩm; Về bộ máy nhà nước, nhà nước có vai trò to lớn ở ba chức năng cơ bản là đối nội, đối ngoại (tự vệ, chống xâm lăng) và công cộng (trị thủy).
Có thể khẳng định, cho đến trước thế kỷ XIX, Việt Nam đã trải qua lần lượt các thời kỳ Công xã nguyên thủy và sau đó là Phương thức sản xuất châu Á, lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế. Từ thời nhà Lý (thế kỷ XI) cho đến thời nhà Nguyễn (thế kỷ XIX), quan niệm “Thiên tử” với quyền uy tuyệt đối (“ở dưới gầm trời, đâu cũng đất vua, khắp trên mặt đất, ai cũng dân vua”) luôn được coi là nguyên tắc chính trị - đạo lý cơ bản. Do đó, về quan hệ sản xuất, các chính quyền phong kiến Việt Nam đều nắm giữ ruộng đất, nhà vua là nhân vật quyền lực nhất, đưa ra các luật lệ nhằm quản lý, phân công công việc cho các địa phương, sau đó từ địa phương tiếp tục phân công cho người dân. Mặc dù nhà nước có sự phân chia thành nhiều loại ruộng đất (ruộng công, ruộng lộc điền…) song đều chịu sự chi phối của tầng lớp quý tộc. Nông dân là lực lượng sản xuất cơ bản, canh tác ruộng đất theo phân công hàng năm, đồng thời chịu nhiều nghĩa vụ nặng nề đối với nhà nước như phải nộp thuế thân (sưu), cống phẩm theo mùa vụ, tham gia lao dịch (đắp đê, khai hoang, làm đường, phục vụ chiến tranh...). Những nghĩa vụ này không chỉ mang tính chất kinh tế, mà còn phản ánh rõ mối quan hệ ràng buộc giữa nhà nước với người dân trong khuôn khổ của một mô hình sản xuất vừa mang tính cộng đồng, vừa tập trung quyền lực - tương đồng với những đặc trưng của Phương thức sản xuất châu Á.
Tuy nhiên, Phương thức sản xuất châu Á và bộ máy chính quyền phong kiến cũng mang nhiều điểm hạn chế. Về trường hợp Việt Nam, tính chuyên chế, tập quyền tuyệt đối khiến các quyết sách phát triển quốc gia trở nên phụ thuộc hoàn toàn vào triều đình, gắn với vai trò của nhà vua. Đặc điểm này khiến tình hình đất nước chịu ảnh hưởng từ một cá nhân cụ thể, do đó một quyết định sai lầm có thể đẩy quốc gia tới bờ vực suy thoái. Mặt khác, nền tảng kinh tế của nhà nước về cơ bản dựa trên tính chất bóc lột của quan hệ sản xuất phong kiến không còn phù hợp với nhu cầu thực tế của thời đại thương mại phát triển và khai thác thị trường quốc tế. Điều đó dẫn đến sự phản kháng của nông dân - lực lượng sản xuất cơ bản, đồng thời cũng là đối tượng khai thác và bóc lột chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, các cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra tại nhiều nơi trên khắp đất nước, đẩy triều Nguyễn vào thế bế tắc và rối ren.
Từ giữa thế kỷ XIX, các đế quốc châu Âu ngày càng thể hiện tham vọng lớn, đặt mục tiêu xâm chiếm thị trường tại khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh đó, Việt Nam không tránh khỏi phải chịu sự tấn công quân sự và sức ép chính trị từ phương Tây (đặc biệt là thực dân Pháp). Mặc dù có những phản kháng quyết liệt ban đầu (biểu hiện qua các trận đánh do triều đình phát động và các cuộc khởi nghĩa nông dân), song những ưu thế vượt trội về vũ khí, công nghiệp của Pháp đã dần áp đảo, khiến triều đình Nguyễn phải từng bước nhượng bộ và ký các hiệp ước bất bình đẳng. Kết quả, đến cuối thế kỷ XIX, Việt Nam đã trở thành thuộc địa, chịu sự cai trị của thực dân Pháp. Quá trình cai trị tại các thuộc địa vừa để lại những hậu quả cho các xã hội bản địa, nhưng phần nào cũng đã du nhập các khía cạnh của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa do đặc điểm và nhu cầu thực tế phục vụ cho mục đích thống trị. Điều này đã tạo ra những thay đổi căn bản cho các nước nói riêng và khu vực nói chung, trong đó có Việt Nam cùng chia sẻ khi là một thuộc địa dưới sự xâm lược và cai trị của Pháp.
2. Biến đổi của kinh tế Việt Nam thời thuộc địa dưới tác động của thành tố tư bản chủ nghĩa
Sau hòa ước Patenôtre (1884), đặc biệt với sự kiện thành lập Liên bang Đông Dương vào năm 1887, Pháp bắt đầu đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa tại Việt Nam, thông qua hai lần khai thác: Lần thứ nhất (1897 - 1914) và Lần thứ hai (1919 - 1933). Qua các cuộc khai thác thuộc địa, để thích ứng với nhu cầu thực tế nhằm đạt hiệu quả về siêu ngạch lợi nhuận, Pháp đã thực hiện những thay đổi đối với nền kinh tế Việt Nam theo điều hướng của quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
2.1. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914)
Hội chợ đầu tiên mở tại Nhà đấu xảo Hà Nội vào năm 1902
Hội chợ đầu tiên mở tại Nhà đấu xảo Hà Nội vào năm 1902
Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận từ thuộc địa, Pháp đã đẩy mạnh việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành khai khoáng, nông nghiệp đồn điền, thương nghiệp và giao thông vận tải. Thực dân Pháp khai thác thuộc địa tại Việt Nam với tinh thần cơ bản: Thuộc địa phải được đặc biệt dành riêng cho thị trường Pháp. Nền sản xuất ở thuộc địa này chỉ được thu gọn trong việc cung cấp cho chính quốc nguyên liệu hay những vật phẩm gì mà nước Pháp không có.
Về nông nghiệp, Pháp chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân để lập đồn điền trồng các cây công nghiệp (cà phê, chè, cao su…). Phương thức kinh doanh của thực dân Pháp ở các đồn điền chủ yếu vẫn là phát canh thu tô theo lối bóc lột phong kiến: “Năm 1907, chúng lập được 244 đồn điền, phần lớn trồng lúa. Ngoài ra còn có đồn điện trồng cao su, cà phê, chè. Diện tích cao su từ năm 1897 đến 1920 là 7201 hecta. Chè năm 1900 đã xuất khẩu được 180 tấn. Cà phê từ năm 1888 đã có những đồn điền trồng thí nghiệm ở cả ba kì Bắc, Trung, Nam. Từ những năm đầu thế kỉ, sản lượng cà phê ngày càng tăng và là một nguồn lợi đáng kể cho tư bản Pháp”. Mặt khác, Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp, do đó người Pháp vẫn duy trì việc xuất khẩu gạo và cho phép canh tác trồng lúa, song một điều không đổi là chính quyền thực dân luôn có sự chiếm hữu đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng: “Theo Guru (Pierre Gourou), năm 1870 ở Nam Kì diện tích canh tác là 522.000 hecta, sản lượng gạo xuất khẩu 229.000 tấn, đến năm 1910 diện tích canh tác đã tăng lên 1.528.000 hecta, sản lượng gạo xuất khẩu 1.109.000 tấn”.
Cần phải làm rõ, đồn điền đã có từ thời Nguyễn, tuy nhiên về bản chất khác với đồn điền do người Pháp lập ra. Từ cuối thế kỷ XVIII, vua Gia Long đã cho lập đồn điền ở Nam Bộ dưới hai hình thức: Đồn điền do binh lính khai khẩn gọi là trại đồn điền và đồn điền do dân khai khẩn gọi là hậu đồn điền. Nhà Nguyễn từng bước quân sự hoá hậu đồn điền và đến năm 1822 thì quyết định chuyển toàn bộ hậu đồn điền thành trại đồn điền. Địa điểm chọn xây dựng đồn điền thường là những nơi xung yếu về quân sự và có tiềm năng đất đai. Vì thế, Nam Bộ là địa phương tập trung đồn điền dưới thời Nguyễn. Nhà nước chủ yếu sử dụng lực lượng binh lính, bên cạnh đó còn có một số tù phạm đi khai khẩn, canh tác ruộng đất trong các đồn điền. Sản phẩm thu hoạch từ ruộng đất đồn điền phần lớn nộp kho nước, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tại chỗ của binh lính. Diện tích đồn điền ở thời điểm cao nhất ước khoảng vài chục ngàn mẫu. Như vậy, đồn điền thời Nguyễn mang tính chất quân sự là chủ yếu, nhằm mục đích tự cung tự cấp và khai thác tại chỗ về mặt lương thực. Khi so với đồn điền của Pháp (Plantation), vốn là các đại điền trang dùng để trồng các loại cây công nghiệp, được thành lập ở các vùng kinh tế chuyên canh, với mục đích thu hoạch để sinh lời và xuất khẩu thì rõ ràng khác nhau.
Về công nghiệp, như đã trình bày, tinh thần của người Pháp đã thể hiện rõ rằng họ không muốn đầu tư lớn cho công nghiệp tại Việt Nam, chỉ khuyến khích trong giới hạn bổ sung và không làm hại cho công nghiệp Pháp. Như vậy, ngành công nghiệp quan trọng duy nhất Pháp độc quyền là ngành khai thác mỏ, do tính chất nhanh chóng thu được lợi nhuận và phục vụ công nghiệp Pháp ở châu Âu và Đông Á: Theo một số thống kê, tổng sản lượng khai thác than của Pháp theo các năm là 285.915 tấn (1903), 415.000 tấn (1912) và 500.000 tấn (1913). Phần lớn số than này được đem bán cho một số nước ở Viễn Đông như Nhật Bản, Trung Quốc; một phần đưa sang Pháp; phần còn lại dùng cho công nghiệp Pháp ở Việt Nam. Ngoài than, nhiều mỏ kim loại cũng được đẩy mạnh khai thác như thiếc (Cao Bằng); kẽm (Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên); đồng (Sơn La); Sắt (Thái Nguyên, Thanh Hóa)… Trong các mỏ vàng thì mỏ Bồng Miêu quan trọng hơn cả, từ năm 1895 đến 1914 mỗi năm sản xuất được khoảng 100 kg vàng. Sau ngành khai thác mỏ là một số ngành công nghiệp nhẹ như sản xuất xi măng, vải sợi, gạch ngói, điện nước, chế biến nông lâm sản (xẻ gỗ, xay xát gạo, sản xuất giấy, diêm, thuốc lá, rượu, đường…), số lượng xí nghiệp rất lớn, lên đến hàng trăm xí nghiệp vào đầu thế kỷ XX. Phương thức hoạt động của tư bản thực dân Pháp ở Việt Nam là tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt, sử dụng đến mức tối đa lao động thủ công kết hợp lao động cơ giới, kết hợp bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiền tư bản chủ nghĩa.
Pháp khai mỏ tại Việt Nam
Pháp khai mỏ tại Việt Nam
Về tài chính và thương nghiệp, cần nhắc lại rằng thị trường thuộc địa dành riêng cho tiêu thụ và xuất khẩu các sản phẩm của thị trường Pháp. Tại Việt Nam, thực dân Pháp thực hiện chính sách độc quyền thương mại và độc quyền ngân hàng, tiền tệ. Vì thế cán cân ngoại thương và giá trị thặng dư ở Đông Dương tăng lên nhanh chóng: “Tổng giá trị xuất nhập khẩu của Đông Dương đã tăng từ 140 triệu đồng đầu thế kỉ lên 197 triệu đồng trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. Từ 1900 đến 1906, giá trị hàng nhập lớn hơn giá trị hàng xuất là do Đông Dương tiếp nhận trang thiết bị tương ứng với nguồn vay của chính quốc theo chương trình của Doumer… Việt Nam giàu than đá và khoáng sản, những nguyên liệu này được xuất sang Pháp và một số nước khác, trong khi phải nhập từ cái kim khâu, chiếc đinh đóng guốc đến đường ray, đầu máy, toa xe từ Pháp sang. Sản lượng cao su Việt Nam phải xuất sang Pháp để rồi nhập các chế phẩm cao su từ Pháp vào. Hàng hóa của Việt Nam mà Pháp cần đều phải dành cho Pháp, không được xuất ra nước khác. Những hàng hóa mà Pháp thừa ế hoặc kém phẩm chất so với hàng các nước khác thì Việt Nam phải mua vào”. Ở một ngành nghề khác là thủ công nghiệp, thực dân Pháp đã làm suy yếu các ngành nghề thủ công truyền thống của Việt Nam, vốn rất phát triển trong thời kỳ nhà Nguyễn. Những mặt hàng như sơn mài, thêu, khảm, đan lát… trở thành mặt hàng thu mua giá rẻ rồi xuất khẩu kiếm lợi nhuận.
Nhìn chung, sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến quan trọng, mang sắc thái của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện ở sự tập trung vào ngành công nghiệp nhẹ, sự thay đổi cây trồng, thành lập các đồn điền trong nông nghiệp, độc quyền thương mại tài chính. Những yếu tố này đã khiến quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất có những thay đổi nhưng chưa phải hình thái tư bản chủ nghĩa.
2.2. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1933)
Pháp bước ra khỏi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất với những tổn thất nặng nề về kinh tế và tài chính. Chiến tranh đã tàn phá hàng loạt các nhà máy, cầu cống, đường sá trên khắp cả nước. Nhiều ngành sản xuất công nghiệp, thương mại đình trệ, tiêu hủy số vốn đầu tư lớn của Pháp tại nước ngoài. Chính vì vậy, Pháp đã đẩy mạnh đầu tư khai thác thuộc địa, số vốn tăng gấp nhiều lần so với cuộc khai thác đầu tiên: “Riêng năm 1920, khối lượng vốn đầu tư vào Việt Nam của tư bản Pháp đã đạt đến con số 255 triệu Franc. Nếu trong vòng 30 năm từ 1888 đến 1918 Pháp đã đầu tư vào Đông Dương (chủ yếu ở Việt Nam) khoảng 1 tỉ Franc thì chỉ tính riêng từ 1924 đến 1929 đã là 4 tỉ Franc”.
Về nông nghiệp, đây là ngành được Pháp tập trung đầu tư mạnh nhất do có năng suất cao, chi tiêu không quá nhiều và thuận tiện khai thác kết hợp với giai cấp địa chủ. Hầu hết các đồn điền đều được dùng để trồng lúa, cao su, chè, cà phê, mía, bông, hồ tiêu… Trong giai đoạn này, đồn điền cao su được phát triển hơn cả: “Riêng hai năm 1927 - 1928, các đồn điền cao su đã được đầu tư 600 triệu Franc. Năm 1919, diện tích trồng cao su là 15.850 ha, đến năm 1925 tăng lên 18.000 ha và 5 năm sau đã tăng lên 78.620 ha. Sản lượng thu hoạch cao su ngày càng lớn, từ 3.500 tấn năm 1919 lên 6.796 tấn năm 1924. Riêng số nhựa cao su xuất khẩu năm 1929 đã đạt con số 10.000 tấn”. Các đồn điền khác trồng chè, cà phê… cũng được mở rộng diện tích canh tác lên tới hàng nghìn hecta mỗi cho mỗi loại cây trồng. Xuất khẩu gạo vẫn được người Pháp duy trì, phát triển mạnh nhất ở miền Nam Việt Nam: “Trong những năm 20, lúa vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, đạt từ 60% - 70% giá trị xuất khẩu. Năm 1880, sản lượng gạo xuất khẩu là 240.000 tấn thì đến năm 1928 đã lên 1.700.000 tấn, số lượng xuất khẩu gạo trong thập niên 20 tăng 25%”. Mặc dù phát triển như vậy, nông nghiệp Việt Nam bị cột chặt với nền kinh tế thương mại, xuất khẩu của Pháp, không giúp đất nước phát triển mà thậm chí mang nặng tính bóc lột nặng nề gấp nhiều lần do chính quyền thực dân gây ra.
Về công nghiệp, các ngành này cũng được tăng cường đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất. Khai thác than đá, thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn và công nhân nhằm đẩy mạnh tiến độ khai thác. Các cơ sở chế biến quặng, đúc kẽm cũng được xây dựng nhằm đạt năng suất tối đa khai thác, phục vụ xuất khẩu: “Nếu sản lượng than năm 1919 là 665.000 tấn thì đến 1929 đã lên tới 1 tỉ 972 triệu tấn than, tức là tăng gấp ba lần. Riêng năm 1928, tư bản Pháp đã khai thác được gần 2 triệu tấn than, 21 nghìn tấn kẽm, 250 tấn chì, 105 tấn vonfram, 150 nghìn tấn muối. Tổng giá trị các loại quặng khoáng sản đã khai thác được từ năm 1923 đến 1929 tăng gấp 2 lần, khoảng trên 200 triệu Franc”. Các cơ sở chế biến quặng, đúc kim loại theo đó được xây dựng ở nhiều vùng lãnh thổ đất nước. Cùng với công nghiệp khai mỏ, công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến như xi măng, tơ sợi, xay xát gạo, chế biến rượu, làm đường… đều được nâng cấp và mở rộng. Nhà máy xi măng Hải Phòng từng là cơ sở công nghiệp nổi tiếng của Pháp về mức độ đầu tư và quy mô sản xuất, vẫn còn hoạt động đến ngày nay.
Ngoài ra, giao thông vận tải được tăng cường đầu tư vốn và thiết bị kĩ thuật. Vấn đề vận tải vốn được Pháp quan tâm từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, trong giai đoạn đó đã có nhiều tuyến đường thủy, đường bộ và đường sắt được xây dựng để kết nối các khu canh tác nông nghiệp với cơ sở buôn bán, các khu khai mỏ đến các nhà máy, khu công nghiệp xử lý chế biến… Cầu Long Biên cũng đã được khởi công và hoàn thiện nhanh chóng từ năm 1898 đến 1902. Cho đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, do nhu cầu khôi phục nền kinh tế nhanh chóng, tốc độ bóc lột đẩy mạnh nên giai thông vận tải thời kỳ này được Pháp xây dựng nhiều hơn hẳn. Các đoạn đường sắt Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm được thực hiện. Các tuyến đường bộ cũng được làm mới xây dựng: “Tính đến năm 1931, Pháp đã xây dựng được 2389 km đường sắt trên lãnh thổ Việt Nam. Đến năm 1930 đã mở được gần 15.000 km đường quốc lộ và liên tỉnh, riêng đường rải nhựa mới có khoảng vài nghìn km”.
Về tài chính và thương nghiệp, thực dân Pháp tiếp tục thực hiện chính sách độc quyền thương mại và độc quyền ngân hàng, tiền tệ, biến Việt Nam thành thị trường lớn tiêu thụ hàng hóa Pháp, cũng như là nơi để xuất khẩu các mặt hàng do Pháp khai thác ra thị trường thế giới, trong đó xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu: “Nếu giai đoạn trước chiến tranh, hàng Pháp nhập vào Đông Dương mới chiếm 37% thì đến những năm 1929-1930 đã lên tới 63% tổng số hàng nhập khẩu… Vào thời kì này, Việt Nam tăng cường mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều nước khác như Anh, Đức, Mĩ, Italia và một số nước trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á như Thái Lan, Trung Quốc, Singapore, Hồng Kông. Tuy nhiên, bạn hàng chính của Việt Nam vẫn là Pháp. Giá trị hàng Pháp và các thuộc địa của Pháp chiếm từ 29.6% trong những năm 1911-1920, lên 43.2% trong những năm 1921 1930”. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Đông Dương đóng vai trò quan trọng hơn cả trong việc tổ chức và chi phối các nguồn đầu tư và hoạt động tài chính đa ngành tại các tỉnh Việt Nam, thông qua việc phát hành giấy bạc và cho vay lãi, kết hợp làm việc với các Nông phố ngân hàng để can thiệp sâu hơn vào kinh tế tiền tệ ở cả thành thị và nông thôn.
Ngân hàng Đông Dương
Ngân hàng Đông Dương
Có thể thấy rằng, trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, Pháp đã nỗ lực đầu tư cả về mặt kĩ thuật và con người. Tuy nhiên, tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam với mục đích phục vụ Pháp, không giúp phát triển mà còn làm phân hóa sâu sắc hơn xã hội Việt Nam. Nền sản xuất Việt Nam nói chung vẫn rất lạc hậu, phần lớn kém phát triển và bị hạn chế bởi thực dân Pháp. Sự biến chuyển của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam thời kỳ này tiếp tục diễn ra, mang nhiều khác biệt so với giai đoạn khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Có thể nhận định, hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ này là thực dân hóa, thuộc địa hóa.
3. Một số nhận xét về hệ quả
Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp đã chứng kiến sự đầu tư và thay đổi ở nhiều lĩnh vực kinh tế. Bắt nguồn từ các chính sách bóc lột thực dân, mô hình kinh tế chủ đạo ở Việt Nam vẫn là lấy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ làm trọng tâm do thực dân Pháp chú trọng để lấy lợi nhuận siêu ngạch, ngành công nghiệp nặng và giao thông vận tải chỉ được đầu tư để phục vụ cho mục đích khai thác. Tiềm lực kinh tế chủ yếu tập trung trong tay thực dân Pháp, sản xuất được sắp xếp theo chính sách của Pháp. Điều đó khiến tính chất thuộc địa - tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam trở nên điển hình, với nền kinh tế từ nông nghiệp tự cung tự cấp chuyển sang nền kinh tế thuộc địa - tư bản chủ nghĩa.
Trước hết, kinh tế Việt Nam bị tổ chức lại theo mô hình thuộc địa phục vụ hoàn toàn cho lợi ích của tư bản Pháp, dẫn đến tình trạng lệ thuộc cao độ. Trong nông nghiệp - nền kinh tế truyền thống của cư dân Việt Nam - không được đầu tư cải tiến kỹ thuật hay hiện đại hóa sản xuất, mà chỉ tập trung mở rộng các đồn điền trồng cây công nghiệp xuất khẩu. Những đồn điền nói riêng và đất đai nói chung chủ yếu thuộc sở hữu của tư bản Pháp hoặc một số ít địa chủ tay sai, trong khi phần lớn nông dân Việt Nam bị mất đất, trở thành tá điền hoặc công nhân đồn điền chịu bóc lột nặng nề. Hệ thống thuế phong kiến - thực dân khắc nghiệt cùng lúc đè nặng lên giai cấp nông dân, khiến đời sống của họ ngày càng đói nghèo, khó khăn. Mâu thuẫn trong quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế về cơ bản không được giải quyết.
Trong công nghiệp, tuy một số ngành mới được du nhập, nhưng chủ yếu là các ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên như than, thiếc, kẽm, và một số xí nghiệp chế biến đơn giản phục vụ cho công nghiệp Pháp và xuất khẩu ra các thị trường dưới quyền quản lý của Pháp. Người Việt chỉ làm các công việc nặng nhọc với mức lương thấp và không có quyền lợi. Nền công nghiệp bản địa không có cơ hội phát triển vì bị chính quyền thực dân ngăn cản thông qua chính sách độc quyền, hạn chế. Các làng nghề thủ công truyền thống dần bị mai một, không thể cạnh tranh với hàng hóa công nghiệp Pháp tràn vào thị trường nội địa. Từ đó, Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa cho tư bản Pháp, làm mất đi khả năng tự chủ và sáng tạo nội lực của dân tộc.
Về thương nghiệp, thực dân Pháp thiết lập hệ thống độc quyền thương mại đối với các mặt hàng thiết yếu, vừa có giá trị kinh tế cao, vừa dễ kiểm soát hoạt động tiêu thụ tại thuộc địa. Lợi nhuận từ các ngành này được dồn vào tư bản Pháp hoặc các tư sản thân Pháp. Trong khi đó, phần lớn thương nhân - tư sản người Việt bị gạt ra ngoài lề, chỉ có thể tham gia ở mức độ nhỏ lẻ hoặc làm đại lý dưới quyền kiểm soát của người Pháp. Hậu quả, tầng lớp tư sản Việt Nam phát triển yếu ớt, không có đủ tiềm lực kinh tế và số lượng quần chúng để phát triển thành một giai cấp có khả năng lãnh đạo, định hướng giành lại độc lập dân tộc.
Những hệ quả tiêu cực về mặt kinh tế kéo theo sự phân hóa sâu sắc trong kết cấu xã hội. Dưới ách thống trị thực dân, quan hệ giai cấp địa chủ - nông dân truyền thống bị thay đổi: Các địa chủ phong kiến được thực dân Pháp bảo hộ trở thành tay sai, hưởng đặc quyền đặc lợi, còn đại đa số nông dân thì bị bần cùng hóa. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của công nhân, tư sản và tiểu tư sản thành thị - tuy mang yếu tố tiến bộ của một hình thái mới (tư bản chủ nghĩa) - không có điều kiện phát triển đầy đủ, toàn diện trong một xã hội bị kìm hãm bởi chế độ thực dân. Các mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay gắt, mà trên hết là giữa dân tộc Việt Nam bị trị và thực dân Pháp thống trị. Đó là cơ sở quan trọng dẫn tới sự trỗi dậy của các phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XX.
Mặt khác, lịch sử Việt Nam lần đầu tiên ghi nhận sự xuất hiện của số lượng lớn nhà máy, xí nghiệp, đồn điền mang đậm dấu ấn tư bản chủ nghĩa; sự kết hợp làm việc giữa máy móc công nghiệp và con người. Có thể coi đó là khía cạnh tích cực của phương Tây tác động đến tình hình sản xuất và tư duy kinh tế đối với Việt Nam, dù ở mức độ hạn chế và bị kiểm soát chặt chẽ và nảy sinh từ chính quá trình vận hành cơ chế bóc lột thuộc địa.
Trước khi Pháp xâm lược, nền kinh tế Việt Nam mang tính tự cung tự cấp, sản xuất nông nghiệp là chủ đạo, thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển nhỏ lẻ. Dưới thời Pháp, hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại dần hình thành, bao gồm các tuyến đường sắt xuyên quốc gia, hệ thống đường bộ, bưu điện, điện tín, cảng biển như Hải Phòng, Sài Gòn được mở rộng; các nhà máy, xí nghiệp cung cấp nhiều nguyên liệu phục vụ xây dựng. Những cơ sở trên đã tạo điều kiện cho việc lưu thông hàng hóa nội địa, góp phần kết nối các vùng kinh tế trong cả nước, tạo nên sự năng động so với nền kinh tế và quan hệ sản xuất phong kiến truyền thống Mặt khác, sự xuất hiện của các ngành công nghiệp khai thác và chế biến mà Pháp đầu tư là nền tảng cho sự phát triển công nghiệp hiện đại Việt Nam trong tương lai, tuy chỉ ở trình độ thấp và quy mô hạn chế. Những điều này cũng dẫn đến biến đổi xã hội qua trọng: Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ nhưng ngày càng đông đảo, làm việc tập trung trong các hầm mỏ, nhà máy, công xưởng, đồng thời là lực lượng tiên phong trong các cuộc đấu tranh cách mạng. Trong quá trình giao lưu với phương Tây, dù bị hạn chế bởi chính sách cai trị, một bộ phận trí thức và tiểu tư sản Việt Nam, đặc biệt là ở các đô thị như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn… đã tiếp cận với các tư tưởng chính trị, khoa học và văn hóa mới của phương Tây như chủ nghĩa dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội… Họ trở thành lớp người có tinh thần dân tộc sâu sắc, sẵn sàng tiếp thu tư tưởng cách mạng, tổ chức các phong trào yêu nước. Chính tầng lớp này là cầu nối giữa những chuyển biến kinh tế do Pháp tạo ra và sự phát triển mạnh mẽ của ý thức dân tộc.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng những hệ quả tích cực trên chỉ mang tính bề nổi và vẫn chịu sự phụ thuộc vào chính sách cai trị của thực dân. Các yếu tố mới trong kinh tế, xã hội đều bị giới hạn trong khuôn khổ kiểm soát của tư bản Pháp. Người Việt phần lớn không có quyền tự chủ trong sản xuất, không được hưởng lợi từ những thành quả kinh tế. Các yếu tố tích cực tuy có giá trị lịch sử, nhưng không đủ để làm thay đổi tính chất của nền kinh tế thuộc địa - tư bản chủ nghĩa Việt Nam, xóa bỏ sự kìm hãm phát triển của dân tộc.
4. Kết luận
Sự biến chuyển kinh tế Việt Nam dưới thời kỳ thuộc Pháp là một quá trình lâu dài và nhiều biến động. Những chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp không nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển nội tại của Việt Nam nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng, mà thực chất là phục vụ lợi ích cho Pháp. Vì vậy, toàn bộ quá trình biến đổi kinh tế tuy có đem lại một số thay đổi bề mặt như cơ sở hạ tầng hiện đại, hình thành một số ngành nghề mới và làm xuất hiện một số tầng lớp, giai cấp xã hội hiện đại, nhưng tất cả đều nằm trong khuôn khổ một nền kinh tế thuộc địa bị kiểm soát và lệ thuộc. Việt Nam không thể xây dựng được một nền kinh tế tư bản - công nghiệp độc lập, mà trở thành một thị trường tiêu thụ và một nơi cung cấp nguyên liệu, nhân công giá rẻ cho tư bản Pháp. Các tầng lớp lao động, đặc biệt là nông dân và công nhân, bị bần cùng hóa, trong khi một bộ phận thiểu số ở tầng lớp cao hơn được hưởng lợi nhờ cấu kết với chính quyền thực dân. Cấu trúc quan hệ giai cấp, quan hệ sản xuất truyền thống bị phá vỡ nhưng không được thay thế bằng một cấu trúc hiện đại hơn, các mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, chính trong hoàn cảnh ấy, ý thức dân tộc và tinh thần cách mạng lại được khơi dậy mạnh mẽ, đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển của phong trào đấu tranh giành độc lập về sau.
Từ việc làm rõ nguyên nhân và hệ quả của sự biến chuyển kinh tế Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, có thể rút ra bài học quan trọng về vai trò của nền độc lập, tự chủ; phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi ích dân tộc đặt lên hàng đầu. Nhìn từ lịch sử, chỉ khi nhà nước, giai cấp lãnh đạo có sự chủ động, làm chủ các nguồn lực, chính sách và định hướng kiến tạo thì đất nước mới có thể thực sự phát triển bền vững, bảo vệ được lợi ích của dân tộc.
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lê (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II: 1858-1945, Nxb. Giáo dục.
2. Nguyễn Quang Ngọc (2010), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục.
3. Tạ Thị Thúy (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 7: Từ năm 1897 đến năm 1918, Nxb. Khoa học Xã hội.
4. Tạ Thị Thúy (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 8: Từ năm 1919 đến năm 1930, Nxb. Khoa học Xã hội.
5. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I: Từ thời nguyên thủy đến năm 1858, Nxb. Giáo dục.
6. Trương Thị Yến (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 5: Từ năm 1802 đến năm 1858, Nxb. Khoa học Xã hội.
7. Vũ Văn Quân (2013), Vấn đề ruộng đất trong chính sách đối nội của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX, Website Khoa Lịch Sử, 2023.