Cách tiếp cận và các giải pháp của Việt Nam với COVID-19 từng là một trong những cách thức hiệu quả nhất trên thế giới. Số ca mắc và tử vong thấp kỷ lục cùng với hiệu quả kinh tế ấn tượng trong thời kỳ đại dịch toàn cầu đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên toàn cầu. Kết quả kinh tế tốt đã thúc đẩy niềm tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn Đảng đang tiến hành thay đổi ban lãnh đạo. Một nghiên cứu được thực hiện ở 23 quốc gia vào tháng 5 năm 2020 cho thấy kết quả ở Việt Nam ghi nhận mức độ hài lòng cao thứ hai sau Trung Quốc, với 77% đánh giá tích cực về phản ứng của chính phủ đối với cuộc khủng hoảng COVID-19 toàn cầu. Năm 2020 cũng là một năm quan trọng đối với chính trị Việt Nam. Ở mặt ngoại giao, Việt Nam giữ tư cách Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong đó kì Đại hội Đảng lần thứ 13, vốn được tổ chức 5 năm 1 lần, sẽ được tổ chức vào năm 2021. Đáng lưu ý là Đại hội Đảng lần thứ 13 tổ chức năm nay là một trong những đại hội quan trọng nhất kể từ năm 1986, khi Việt Nam bắt tay vào công cuộc Đổi mới đầy thách thức, và được diễn ra trong bối cảnh có sự thay đổi và chuyển giao về nhân sự trong nội bộ Đảng.
Tuy vậy trong thời gian gần đây, sự gia tăng đáng lo ngại các ca nhiễm mới ở vùng đô thị cùng với tỷ lệ tiêm chủng thấp đã dấy lên những lo ngại và đặt ra nghi ngờ về hiệu quả chống dịch của Việt Nam.
Giống như nhiều quốc gia trong khu vực, Việt Nam đang vật lộn để ngăn chặn sự lây lan của biến thể Delta, vốn xuất hiện lần đầu vào cuối tháng 4 năm 2021. Trước thời điểm đó, cả nước ghi nhận ít hơn 3.000 trường hợp mắc và 35 trường hợp tử vong trong hơn 15 tháng kể từ khi đại dịch bắt đầu vào tháng Giêng năm 2020. Nhưng đến tháng 7 năm 2021, số ca mắc mới tăng lên hàng nghìn ca mỗi ngày và ngày càng khó kiểm soát. Kỷ lục trong một ngày cao nhất (cho đến nay) là 9.684 trường hợp vào ngày 8 tháng 8, gần 4 lần tổng số ca nhiễm ở Việt Nam trong cả năm 2020. Tính đến thời điểm hiện tại, đã có hơn 220.000 ca lây nhiễm và 3.757 người đã tử vong (thời điểm tác giả viết bài). Số ca nhiễm và số người tử vong tăng đột biến cho chúng ta thấy mức độ nguy hiểm của biến thể Delta so với các biến thể trước đó.
Các nhà chức trách Việt Nam đã vật lộn để ngăn chặn sự lây lan hiện tại bằng các phương pháp mà họ đã sử dụng trước đây, đó là giám sát và cách ly tập trung. Các ca nhiễm mới phân bố trên toàn quốc nhưng tập trung nhiều nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, vốn đông đúc dân cư và là trung tâm kinh tế, công nghiệp của cả nước. Các lệnh cấm được áp dụng kể từ tháng 7 ảnh hưởng đến công ăn việc làm và kế sinh nhai của nhiều người Việt Nam, đồng thời gây áp lực lên hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, và làm ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Những gã khổng lồ trong ngành may mặc, giày dép và điện tử như Adidas, Nike và Apple đang lo lắng về nguồn cung và giá cả khi biến thể Delta tiếp tục hoành hành Việt Nam.
Tại sao các phương pháp phòng chống COVID-19 trước đây của Việt Nam không còn hiệu quả như trước?
Lý do khách quan là biến thể Delta có cách thức lây nhiễm khác biệt (và khó kiểm soát) so với các biến thể trước đó. Một nguyên nhân khác là chiến dịch tiêm chủng của Việt Nam đã chậm trễ. Điều này có thể được lí giải bởi nhiều lí do.
Chính phủ Việt Nam đã phần nào chủ quan trong công tác phòng tránh dịch, vốn là một cái bẫy chung mà nhiều quốc gia thành công bước đầu mắc phải, ví dụ như Úc, Đài Loan và New Zealand. Sự thiếu khẩn trương do tỷ lệ nhiễm thấp đã khiến Việt Nam chậm chân trong việc đảm bảo nguồn cung. Tình trạng thiếu vắc xin, đặc biệt đối với các nước kém phát triển, càng khiến quy trình tiêm chủng của Việt Nam bị kéo dài. Khi biến thể Delta bùng phát ở Ấn Độ và lây đến Việt Nam, Đảng vẫn đang trong quá trình chuyển đổi lãnh đạo. Đại hội Đảng lần thứ 13 kết thúc vào đầu tháng 2, nhưng các vị trí nội các đã để trống cho đến tháng 5 và tháng 6 khi Quốc hội tiến hành bỏ phiếu. Có thể cho rằng quá trình chuyển giao quyền lực đã làm xao lãng chiến dịch mua sắm vắc xin của Việt Nam trong bối cảnh nguồn cung đang thiếu hụt toàn cầu.
Các nhà chức trách cũng cho rằng họ có thể cầm cự để chờ phát triển vắc-xin nội bộ, với bốn loại đang được triển khai: Nanocovax , Covivac và hai loại khác. Nanocovax đã vượt qua ba giai đoạn thử nghiệm trên người, dự kiến ​​sẽ sớm được chấp nhận và có tiến hành sản xuất vào cuối năm nay.
Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất vật lộn với tình trạng thiếu vắc-xin. Trên thực tế, câu chuyện Việt Nam minh họa những khó khăn trong việc chống lại đại dịch với nguồn lực hạn chế. Việc ngăn chặn và kiểm soát mạnh mẽ có thể giúp hạn chế sự lây lan, nhưng khi nói đến các giai đoạn tiếp theo, mọi việc xoay quanh vắc-xin và các nguồn lực y tế. Giống như hầu hết các nước đang phát triển, Việt Nam thiếu hụt khả năng thu mua, dự trữ vắc-xin và tổ chức tiêm chủng quy mô lớn.
Khi đại dịch bắt đầu, Các cuộc tranh luận quốc tế xoay quanh câu hỏi về hệ thống chính trị n ào hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn dịch bệnh:chế độ chuyên chế hay dân chủ. Mặc dù có nhiều vấn đề trong cuộc tranh luận này, đại dịch năm 2020 đã chứng tỏ hiệu quả của các chính phủ chuyên chế, có quyền lực tập chung và nhận được sự tin tưởng của người dân. Tuy nhiên những ưu thế này chỉ nằm ở bước đầu. Biến chủng Delta cho thấy mọi sự chuẩn bị cho tình huống xấu đều cần thiết, và sự khác biệt chính nằm ở "có vắc-xin hay không". Trong khi các nước phát triển đi đầu trong việc tiêm chủng đại trà, và một số thậm chí đã chuyển sang “tiêm nhắc lại”, nhiều nước đang phát triển vẫn phải vật lộn với tình trạng thiếu vắc-xin.
Vắc xin cũng đã trở thành một thứ trung gian để cạnh tranh quyền lực mềm, ví dụ như các khoản hiến tặng giữa các quốc gia. Việt Nam nhận được ít hỗ trợ từ bên ngoài hơn so với các nước Đông Nam Á. Trong khu vực, Indonesia, Philippines và thậm chí là Campuchia đã nhận được vắc-xin từ Trung Quốc tài trợ nhiều hơn so với Việt Nam. Trong thời gian này, Việt Nam không nhận thiết bị y tế, khẩu trang từ Trung Quốc như các nước láng giềng. Các nhà ngoại giao Trung Quốc thường xuyên đến Indonesia, Malaysia, Philippines và Campuchia nhưng xa lánh Việt Nam. Lí do có thể nằm ở việc Việt Nam đã ứng phó tốt với COVID-19. Tuy vậy, căng thẳng trên Biển Đông cũng có thể là một phần nguyên nhân.
Đến nay, Việt Nam đã nhận được 1,5 triệu liều vắc xin Sinopharm (500.000 liều được tặng vào tháng 6 và 1 triệu liều được mua vào tháng 7), nhưng theo thông báo của Bộ Y tế Việt Nam, vắc xin này sẽ được sử dụng cho công dân Trung Quốc tại Việt Nam, hoặc những người từ Việt Nam có kế hoạch làm việc hoặc học tập tại Trung Quốc hoặc sống gần biên giới với Trung Quốc. Người dân Việt Nam vốn thể hiện sự thiếu tin tưởng đối với các sản phẩm của Trung Quốc, đặc biệt là vắc-xin lần này. Đúng là giới lãnh đạo Việt Nam đang cảnh giác với những tác động địa chính trị của việc phụ thuộc vào vắc-xin của Trung Quốc. Nhưng cảnh giác trên có thể là thừa: trong công cuộc "ngoại giao vắc-xin" này, Trung Quốc cũng không hào phóng với Việt Nam cho lắm.
Việc triển khai tiêm chủng trở nên chậm chạp và chỉ thực sự bắt đầu vào tháng Bảy. Tính đến giữa tháng 8, chỉ 1% dân số được tiêm chủng đầy đủ hai liều và 7,7% với ít nhất một liều. Chiến lược tiêm chủng quốc gia mới được công bố dự kiến ​​sẽ hoàn thành việc tiêm chủng cho 70% dân số vào giữa năm 2022.
Việt Nam đã thành lập Quỹ Vắc-xin phồng chống COVID-19, một quỹ công trị giá 1,1 tỷ USD để đảm bảo 120 triệu liều vắc xin vào cuối năm nay. Chính phủ đã bắt đầu kêu gọi công chúng quyên góp để hỗ trợ cho quỹ. Đến đầu tháng 6, quỹ đã nhận được 180 triệu đô la từ hơn 230.000 tổ chức và cá nhân, bao gồm cả Samsung và Toyota.
Biến thể Delta vốn dễ lây lan đã thách thức khả năng ứng phó trước đây của Việt Nam đối với đại dịch. Việc tiêm chủng chậm chạp và sự lây lan các đột biến mới của vi rút đang thách thức các kế hoạch kinh tế đầy tham vọng của Việt Nam. Mặc dù hoạt động kinh tế đầu năm 2021 của Việt Nam vẫn tấp nập g trưởng GDP 6,6% trong quý thứ hai), nhưng dự báo nửa cuối năm sẽ đi xuống, vì các nhà máy ở các khu vực công nghiệp trọng điểm của đất nước phải giảm công suất do dịch bệnh bùng phát. Kinh tế cùng các chỉ tiêu xã hội khác sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực nếu tình trạng này kéo dài. Ngoài ra, việc đối phó chậm trễ cùng các tác động tiêu cực của đợt bùng phát lần này có thể gây mất uy tín của Việt Nam trên thế giới, làm tăng sự nghi ngờ trong dân chúng và tạo ra một khởi đầu khó khăn cho ban lãnh đạo mới của Việt Nam.
Tính đến giữa tháng 8, tổng cộng 17,9 triệu liều vắc-xin đã đến Việt Nam. Con số này bao gồm hơn 11 triệu liều AstraZeneca do Nhật Bản, Úc và Anh vừa tài trợ vừa bán lại, 5 triệu liều Moderna do Hoa Kỳ tài trợ và 1,5 triệu liều Sinopharm đến từ Trung Quốc. Một tín hiệu lạc quan chỉ ra rằng Việt Nam có thể xoay chuyển tình trạng thiếu vắc xin bằng cách trở thành nhà sản xuất vắc xin. Vào tháng 7, Việt Nam đã sản xuất thành công lô vắc xin Sputnik V của Nga. Việt Nam cũng đang đàm phán với Hoa Kỳ để chuyển giao công nghệ và tìm cách trở thành một địa chỉ sản xuất vắc-xin mRNA đáng tin cậy.
Việt Nam đã trở thành một ví dụ điển hình cho thấy, bất kể chiến lược ứng phó COVID-19 đã từng thành công như thế nào trong quá khứ, mọi thứ vẫn có thể bất ổn trong tương lai. Vì các biến thể mới sẽ tiếp tục xuất hiện, nên các chiến lược ứng phó COVID-19 cần được liên tục xem xét và điều chỉnh cho phù hợp. Tăng tốc độ tiêm chủng toàn dân là giải pháp cấp thiết trước mắt để đảm bảo sự an toàn cho người dân, đồng thời phục hồi nền kinh tế và củng cố niềm tin xã hội.