Báo dịch: 3 cuộc chiến của Saddam (Три войны Саддама) - Phần mở đầu: tiểu sử Saddam Hussein
Lời dẫn: đọc lịch sử Arab hay Trung Đông là 1 việc khó khăn. Tiếng Arab rất khó đọc, kể cả đã dùng AI để dịch. Hơn nữa, hầu hết các...
Lời dẫn: đọc lịch sử Arab hay Trung Đông là 1 việc khó khăn. Tiếng Arab rất khó đọc, kể cả đã dùng AI để dịch. Hơn nữa, hầu hết các quốc gia Trung Đông, cả quân chủ lẫn Cộng hòa, đa phần đều là những quốc gia đóng kín và ảnh hưởng của Hồi giáo rất nặng. Việc tiếp cận Internet và công khai thông tin hay tài liệu trong nước không được dễ dàng như các quốc gia thế tục cởi mở ở châu Âu, châu Mỹ hay Đông Á.
Tiếp cận tài liệu "bản địa" của người Arab viết về lịch sử nước họ nói chung là khó khăn. Chúng ta phải đọc về họ chủ yếu qua những tài liệu từ bên ngoài, chẳng hạn như của phương Tây. Nhưng, kinh nghiệm sau nhiều năm đọc bằng con đường này, tôi nhận ra rằng con đường này dù thuận tiện nhưng tồn tại những rủi ro. Các tài liệu Âu Mỹ có một sự thiếu sót đáng chú ý về các vấn đề lịch sử, chính trị Trung Đông, kể cả những vấn đề mới gần đây. Các bạn sẽ được biết tới 1 ví dụ như vậy, lúc nào có bài viết về Khủng hoảng Iran 1946.
Nhưng đã có 1 may mắn. Có 1 quốc gia, trường phái viết sử khác với Âu Mỹ, viết về sử Arab tương đối đầy đủ, ít nhất là cảm giác viết nhiều vấn đề kỹ hơn sử Âu Mỹ - ấy là Nga. Có nhiều đề tài t phát hiện ra sử Nga đã viết kha khá trong khi sử Âu Mỹ còn chưa xuất hiện trên Wiki. Công bằng mà nói, sử Nga viết nhiều hơn về Trung Đông 1 phần do khoảng cách địa lý gần hơn, và sự can dự của Nga trong chiến tranh Lạnh vào Trung Đông cũng nhiều và trực tiếp hơn nhiều quốc gia Âu-Mỹ.
Do đó, tôi đã đào sâu vào nhiều tài liệu Nga viết các quốc gia Arab, để bới ra thêm nhiều ngóc ngách, góc khuất ít thấy trong tài liệu Âu Mỹ. Một trong những vấn đề như vậy là lịch sử Iraq trước năm 2003.
Có thể nói rằng, đa phần người bình thường ở phương Tây (hay chính Việt Nam), nói về Iraq – cụ thể hơn là những cuộc chiến tranh của Iraq – sẽ nhớ ngay tới cuộc xâm lược Iraq năm 2003 của Mỹ, và không gì hơn!
Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 còn được nhắc tới ít nhiều. Chiến tranh Iran-Iraq 1980-1988 (đáng ra là cuộc chiến quan trọng nhất) bắt đầu phải đi search Google. Và tới chiến tranh Kurd-Iraq 1961-1975 thì coi như đã nằm ngoài từ điển!
Nhưng, ít nhất là có một bộ phận các tác giả Nga, có nghiên cứu sâu về các vấn đề đó. Họ quan tâm viết về chiến tranh Kurd-Iraq (thực tế bản thân Liên Xô có can dự vào cuộc chiến này) hơn so với tác giả phương Tây. Và do vậy, cuối năm 2003, ít lâu sau khi Mỹ xâm lược Iraq, một số tác giả Nga đã có những tác phẩm trên tạp chí, tổng kết lại lịch sử xoay quanh bản thân Saddam Hussein từ trước tới bấy giờ. Một trong những ấn phẩm như thế có tên là "Три войны Саддама" (3 cuộc chiến của Saddam). Nội dung của nó như tên đã thể hiện, tập trung vào 3 cuộc chiến tranh lớn và quan trọng nhất của lịch sử Iraq dưới thời Saddam Hussein. Nhưng nó không bao gồm cuộc xâm lược đang diễn ra của Mỹ - mà nó bao gồm như đã nhắc ở trên - đó là chiến tranh Kurd-Iraq, chiến tranh Iran-Iraq và chiến tranh Vùng Vịnh.
Ấn phẩm gồm 3 phần ứng với mỗi cuộc chiến tranh, sẽ được dịch trong những bài tới. Còn trong bài này, tôi sẽ đưa tới phần phụ lục của nó - là tiểu sử của Saddam Hussein do các tác giả Nga tổng hợp
*******
-28 tháng 4, 1937 - Saddam Hussein sinh ra (trong gia đình một nông dân nghèo ở làng al-Auja thuộc quận Tikrit). Cha của ông, Hussein Majid, qua đời trước khi Saddam được sinh ra, và Saddam trải qua thời thơ ấu trong gia đình của cha dượng, chú Ibrahim al-Hassan, người mà theo phong tục địa phương, đã lấy vợ góa của anh trai mình [mẹ của Saddam] làm vợ.
-1947 - Saddam trốn khỏi làng quê đến trung tâm hành chính quận - thành phố Tikrit để có cơ hội học tập, và sống tại nhà của anh trai mẹ mình là Khairallah Tulfah, người ở độ tuổi 30 từng là sĩ quan trong quân đội hoàng gia Iraq, và sau đó là trong quân đội của chính phủ do Thủ tướng Rashid al-Gailani đứng đầu, người công khai thân Đức và bị người Anh lật đổ. [Câu chuyện này xảy ra vào năm 1940-1941 trong Thế chiến 2. Khi đó chính phủ Iraq ngầm cộng tác với Phát xít Đức, nên quân Đồng Minh dẫn đầu là Anh đã tiến hành cuộc xâm lược Iraq vào năm 1941 để loại bỏ chính phủ thân phát xít này. Chú họ của Saddam là người theo phe Phát xít]
-1954 – Saddam đến Baghdad, nơi ông học trường al-Karkh.
-1957 - Saddam trở thành thành viên phái Iraq của Đảng Phục hưng Xã hội Ả Rập (PASV), còn được gọi là Đảng Ba'ath (được thành lập ở Damascus vào đầu những năm 40 bởi hai giáo viên người Syria: Michel Aflyak, một người Chính thống giáo bản địa, giáo sĩ Hồi giáo dòng Sunni, Din al-Bithar; cơ sở tư tưởng của đảng tuyên bố là đoàn kết, giải phóng và chủ nghĩa xã hội; các chi bộ Ba'ath ở Iraq được tổ chức như một chi nhánh riêng của đảng này vào năm 1954).
-1958 - Saddam Hussein kết hôn với chị/em họ Sajida. Từ cuộc hôn nhân này, ông có hai con trai Udey và Kusei và ba cô con gái Ragda, Rana và Hala. [Sajida Talfah, là con gái của Khairallah Tulfah - chú họ Saddam đã nói ở trên. Nên nói là chị/em họ]
-6 tháng 10, 1959 - Saddam tham gia vào một vụ ám sát bất thành nhằm vào người đứng đầu chính phủ Iraq, Abdel Kerim Qassem, trong đó Saddam bị thương ở chân. Mặc dù bị thương khá nặng nhưng Saddam vẫn về đến nhà (ông phải cưỡi ngựa suốt 4 ngày rồi bơi qua sông Tigris đầy giông bão). Từ al-Auja, ông đi xe máy băng qua sa mạc đến thủ đô Damascus của Syria - lúc bấy giờ là trung tâm chính của chủ nghĩa Ba'ath.
[Một bộ phim tiểu sử sau này do Saddam Hussein tự chỉ đạo làm nói rằng khi bị thương, Saddam trốn đến nhà chú Khairallah Tulfah, được em họ Sajida Talfah chăm sóc. Sau đó để tạ ơn, Saddam mới lấy Sajida Talfah. Như vậy sự kiện ám sát này phải diễn ra trước sự kiện Saddam kết hôn ở trên - nhưng đó chỉ là phim]
[Iraq lúc này là 1 nước Cộng sản, Thủ tướng bị ám sát hụt Abdel Kerim Qassem là người thân với Đảng Cộng sản. Đảng Baath lúc này tranh chấp với Đảng Cộng sản vì tư tưởng chủ nghĩa dân tộc liên Arab, bị những người Cộng sản chỉ trích]
-21 tháng 2, 1960 - Saddam đến Cairo bằng đường hàng không, nơi ông học một năm tại trường Qasr an-Nil, và sau đó, nhận được giấy báo trúng tuyển vào Khoa Luật tại Đại học Cairo, nơi ông học hai năm. Tại Cairo, Saddam đã phát triển từ một đảng viên bình thường trở thành một nhân vật nổi bật của đảng Baath, trở thành thành viên ban lãnh đạo Baath ở Ai Cập.
-1963 – Trong những ngày đầu tiên sau khi đảng Baath nắm quyền ở Baghdad dưới sự lãnh đạo của "Phái Xã hội chủ nghĩa" do đảng này tạo ra (đảo chính xảy ra vào ngày 8 tháng 2), Saddam trở lại Baghdad. Những người theo chủ nghĩa Baath nắm quyền trong 9 tháng
-Tháng 10 năm 1963 - Tại Đại hội Baath toàn Ả Rập lần thứ VI ở Damascus, Hussein đã có một bài phát biểu mạnh mẽ, trong đó ông chỉ trích gay gắt các hoạt động của Ali Salih al-Saadi, Tổng thư ký Đảng Baath Iraq từ năm 1960. Phải rất can đảm mới có thể chống lại người đàn ông quyền lực này của Iraq. Khi trở về Baghdad, Saddam đã phải trốn tránh sự truy bắt.
-11 tháng 11 năm 1963 - Theo đề nghị của đại hội toàn Ả Rập của Đảng Baath, đại hội khu vực của Baath Iraq đã miễn nhiệm al-Saadi khỏi chức vụ tổng bí thư của Đảng, buộc ông ta phải chịu trách nhiệm về những tội ác đã gây ra trong những tháng đảng Baath đã nắm quyền. Hoạt động của Saddam Hussein tại đại hội toàn Ả Rập đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người sáng lập và tổng bí thư đảng Baath Michel Aflyak. Kể từ tháng 10 năm 1963, mối quan hệ bền chặt đã được thiết lập giữa họ và không bị gián đoạn cho đến khi người sáng lập đảng qua đời.
-18 tháng 11, 1963 – Quân đội Iraq dưới sự lãnh đạo của Tướng Aref đã lật đổ phe Baath khỏi quyền lực. Saddam, trong điều kiện bị giam cầm, bắt đầu kết nối thành lập lại một đảng từ đầu.
-Tháng 2 năm 1964 - Ban lãnh đạo Baath Liên Ả Rập quyết định thành lập ban lãnh đạo Baath mới của Iraq gồm 5 người, trong đó có Tướng Ahmed Hassan al-Bakr, người nổi tiếng trong nước và Saddam Hussein, nằm trong ban lãnh đạo theo đề nghị của Aflyak (người sáng lập đảng Baath). Cả al-Bakr và S. Hussein đều đến từ Tikrit, thuộc cùng một bộ lạc, và anh họ của Saddam, Adnan Khairallah là chồng của con gái al-Bakr. Sau hai nỗ lực giành chính quyền ở Baghdad không thành công, Saddam bị bắt và biệt giam.
-Tháng 7 năm 1966 – Theo kế hoạch do al-Bakr phát triển, các thành viên của đảng Baath, bao gồm cả Saddam, đã trốn thoát khỏi nhà tù.
-Tháng 9 năm 1966 - Tại một đại hội khu vực khẩn cấp, được tổ chức trong điều kiện cực kỳ bí mật, Ahmed Hassan al-Bakr trở thành bí thư đảng, và Saddam Hussein trở thành cấp phó của ông, người được giao nhiệm vụ lãnh đạo một đơn vị đặc biệt của đảng với mật danh "Jihaz khanin". "Khanin" là đứa con tinh thần của Saddam. Đó là một bộ máy bí mật bao gồm những nhân sự tận tâm nhất và giải quyết các vấn đề quản lý và phản gián.
-Tháng 6 năm 1967 – Sau Chiến tranh Ả Rập-Israel, Iraq cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ do lập trường thân Israel.
-17 tháng 7, 1968 - Baath thực hiện một cuộc đảo chính thành công, loại bỏ Aref. Quyền lực tối cao trong nước được chuyển cho Hội đồng Chỉ huy Cách mạng (RCC), do al-Bakr, tổng thư ký của Bộ Tư lệnh Cách mạng Iraq, người đồng thời giữ chức chủ tịch và chỉ huy tối cao của đất nước, đứng đầu. Saddam Hussein, với tư cách là trợ lý tổng bí thư đảng, trở thành phó chủ tịch RRC phụ trách an ninh nội bộ. Đảng Cộng sản Iraq chia thành hai bộ phận: Bộ Tư lệnh Trung ương do Aziz al-Haj lãnh đạo đã phát động một cuộc đấu tranh du kích ngầm chống lại đảng Baath, trong khi Ủy ban Trung ương đang trong tình trạng đình chiến mong manh với Baath
-1969 - Hussein tốt nghiệp Đại học Muntaseriya ở Baghdad. Một luật sư được đào tạo.
-19 tháng 4, 1969 – Iran đơn phương bác bỏ hiệp ước 1937, theo đó biên giới với Iraq ở khu vực sông Shatt al-Arab đi qua lãnh hải Iran. Do đó, bất kỳ con tàu nào đi từ Vịnh Ba Tư đến một trong các cảng của Iran trên tuyến đường thủy này đều đã đi vào lãnh hải tranh chấp với Iraq, đối mặt với mọi hậu quả sau đó. [Thông thường, đường biên giới của 1 con sông giữa 2 nước nằm trên đường chính giữa của sông. Nhưng hiệp định này lại cho đường biên nó nằm trên lãnh thổ Iran, nghĩa là toàn bộ con sông nằm trên lãnh thổ Iraq, Iran chịu phần thiệt]
-20 tháng 1, 1970 – Những người vô danh cố gắng thực hiện một cuộc đảo chính ở Baghdad.
-21 tháng 1, 1970 – Baghdad cáo buộc Đại sứ quán Iran ở Iraq có các hoạt động lật đổ. Đáp lại, đại sứ Iraq được lệnh rời Tehran trong vòng 24 giờ (quan hệ ngoại giao được khôi phục vào tháng 10 năm 1973).
-10 tháng 3, 1970 - Ký một thỏa thuận với người Kurd, trong đó có điều khoản công nhận quyền tự trị dân tộc ở Iraq. [Trong sử Nga và Arab, hiệp định lịch sử này gọi là "Hòa ước tháng 3", đánh dấu kết thúc chiến tranh Kurd-Iraq lần 1 với sự thắng lợi của người Kurd. Tuy nhiên, chiến tranh Kurd-Iraq lần 2 kéo dài tới năm 1975 sẽ khiến người Kurd thất bại và mất quyền tự trị]
-Tháng 7 năm 1970 - Theo sáng kiến của S. Hussein, đảng Baath đưa ra một số điều kiện, nếu được chấp nhận sẽ mở đường cho Ủy ban Trung ương của CPI [CPI là Đảng Cộng sản Iraq] gia nhập Mặt trận Tiến bộ Quốc gia (NPF): công nhận vai trò lịch sử tính chất tiến bộ của cách mạng 17/7/1968; ghi nhận “vai trò lãnh đạo của Baath trong chính phủ, các tổ chức quần chúng và Mặt trận.” [Đoạn này các bạn cần hiểu là, Đảng Baath đứng ra tổ chức 1 mặt trận tên là Mặt trận Tiến bộ Quốc gia (NPF). Nó cho phép các đảng phái không phải Baath, nhưng có tư tưởng Xã hội chủ nghĩa, như Đảng Cộng sản được gia nhập và tham gia vào hoạt động chính trị, nhưng vẫn phải chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng Baath. Hình thức này thực chất do Hafez al-Assad ở Syria phát minh ra sau đảo chính năm 1970, Saddam Hussein chỉ học theo]
-16 tháng 7, 1970 – Hiến pháp tạm thời được ban hành, theo đó Iraq được coi là “nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân có chủ quyền”. Cơ quan có thẩm quyền cao nhất là Hội đồng Chỉ huy Cách mạng (RCC), do Tổng thống nước Cộng hòa làm chủ tịch (từ tháng 7 năm 1979, Saddam Hussein vừa làm Tổng thống, cũng đồng thời là Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang, và kể từ tháng 5 năm 1994, Saddam cũng là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
-Giữa năm 1970 - Quan hệ giữa Iraq và Syria bị đóng băng, lý do là việc xây dựng Đập Euphrates ở Syria, dẫn đến tình trạng thiếu nước ở Iraq và nạn đói của khoảng 3 triệu nông dân (theo Iraq) . Trên thực tế, sự khác biệt về hệ tư tưởng giữa phái Iraq và Syria của Đảng Baath đã đóng một vai trò quan trọng. [Có thể đọc lại bài "Phong trào Khắc phục ở Syria" để xem lại việc này]
-1971-1973 - Hussein học tại học viện quân sự ở Baghdad.
-Tháng 7 năm 1973 - Ủy ban Trung ương CPI (Đảng Cộng sản Iraq) chấp nhận các điều khoản của Baath, Điều lệ Hành động Quốc gia (CNA) được Tổng thống al-Bakr ký với tư cách là Tổng Bí thư Đảng Baath và Bí thư thứ nhất của Ủy ban Trung ương CPI Aziz Muhammad.
Đảng Dân chủ người Kurd (KDP) từ chối đề xuất gia nhập Mặt trận tiến bộ Quốc gia (NPF). Nhưng luật về quyền tự trị của người Kurd được Đảng Dân chủ người Kurd thông qua đã gây ra sự chia rẽ trong hàng ngũ phong trào dân tộc người Kurd và một "Đảng KDP mới", đã tách khỏi Đảng Dân chủ người Kurd KDP, cùng với các lực lượng chính trị người Kurd khác, bắt đầu hợp tác với chính phủ trong việc thành lập chính quyền tự trị của Kurdistan với những điều kiện của riêng họ.
-7 tháng 10, 1973 – Một ngày sau khi bắt đầu cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel lần thứ tư, Iraq quyết định khôi phục hoạt động ngoại giao với Iran, được thực hiện một tuần sau đó.
-Tháng 3 năm 1974 – Iran mở cửa biên giới cho phiến quân người Kurd rút lui khỏi Iraq dưới áp lực của lực lượng chính phủ. Các trại quân sự đã được thành lập ở Iran để huấn luyện các chiến binh người Kurd.
-1974 - Khu tự trị người Kurd (KAR) được thành lập ở miền bắc Iraq với trung tâm là thành phố Erbil.
-1975-1978 - Từ 300 đến hơn 350 nghìn người Kurd bị trục xuất khỏi Iraq, 250 ngôi làng của người Kurd bị đốt cháy. Cái gọi là "vành đai Ả Rập" rộng 25 km đã được tạo ra dọc biên giới với Iran, nơi người Iraq gốc Ả Rập di cư tới.
-6 tháng 3, 1975 - Hiệp định được ký kết tại Algeria (trong hội nghị thượng đỉnh OPEC) giữa S. Hussein và Shah của Iran R. Pahlavi, thông qua sự trung gian của Tổng thống Algeria Houari Boumediene, một thỏa thuận mới về biên giới trong khu vực Sông Shatt al-Arab. Hiệp định năm 1937 bị bãi bỏ và biên giới dọc theo đường chính giữa của sông được khôi phục. Đáp lại, Iran cam kết ngừng hỗ trợ người Kurd nổi dậy ở Iraq.
[Trên thực tế, đây là sự đánh dấu thất bại của người Kurd trong Chiến tranh Kurd-Iraq lần 2 1974-1975]
-13 tháng 6, 1975 - Ký kết thỏa thuận về biên giới và quan hệ láng giềng tốt đẹp giữa Iraq và Iran.
-1976-1978 - Hussein học tại học viện quân sự ở Baghdad.
-3 tháng 4, 1976 - Tướng Hardan al-Tikriti và Salih Mahdi Ammash, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thành viên ban lãnh đạo khu vực và toàn Ả Rập của đảng Baath Iraq (cả hai đều là đối thủ của Saddam Hussein) được bổ nhiệm làm phó tổng thống Iraq. Chẳng bao lâu sau, khi đang đi công tác nước ngoài, al-Tikriti bất ngờ nhận được thông báo miễn nhiệm mọi chức vụ và bổ nhiệm làm đại sứ, nhưng ông đã từ chối một cách khinh thường. Vài tháng sau, al-Tikriti bị giết ở Kuwait bởi những kẻ tấn công không rõ danh tính và không bao giờ được tìm thấy. Ammash vào tháng 9 năm 1976 bị cách chức khỏi mọi chức vụ và được bổ nhiệm làm đại sứ tại Phần Lan.
-1977 – Các tổ chức Đảng Baath cấp tỉnh, cơ quan mật vụ, chỉ huy quân đội và các bộ trưởng báo cáo trực tiếp cho Saddam.
-Tháng 2 năm 1977 – Xung đột nghiêm trọng với người Shiite ở miền nam. Trật tự chỉ được lập lại sau khi một lực lượng quân sự đáng kể được gửi xuống miền nam.
-Tháng 5 năm 1978 - 31 người cộng sản và một số người bị cáo buộc giúp đỡ họ thành lập chi bộ Đảng trong quân đội đã bị xử tử. Hussein tuyên bố cộng sản là "đặc vụ nước ngoài", "kẻ phản bội quê hương Iraq", bắt giữ gần như tất cả đại diện CPI trong NPF và cấm tất cả các ấn phẩm của CPI. Do đó, mặt trận thậm chí không còn tồn tại chính thức và CPI phải hoạt động ngầm.
-1978 – Chính phủ Shah của Iran yêu cầu ngăn chặn các hoạt động của nhà lãnh đạo tinh thần của người Shiite, Ayatollah Ruhollah Khomeini, người đã bị trục xuất khỏi Iran 14 năm trước và từ đó sống ở Najaf [Najaf là thánh địa linh thiêng của người Shitte ở Iraq]. Đầu tiên, ngôi nhà của Khomeini bị bao vây bởi các đặc vụ của cơ quan an ninh nhà nước Iraq Mukhabarat, những người đã ngăn cản các liên lạc của Ayatollah với những người ủng hộ ông, và sau đó người ta quyết định trục xuất vị lãnh đạo này khỏi Iraq. Ông được đưa đến biên giới Kuwait, nhưng lo sợ quan hệ phức tạp với Iran, đất nước này không chấp nhận lưu vong, và vào tháng 9 Khomeini đã bay tới Paris (Pháp).
-17 tháng 7, 1979 - “Thủ lĩnh Cha” al-Bakr rời mọi chức vụ, theo tuyên bố chính thức, ông từ chức vì bệnh tật. S. Hussein trở thành tổng thống. Trong chiến dịch “thanh trừng” khổng lồ diễn ra sau đó, những người bị hành quyết bao gồm một phần ba số thành viên của Hội đồng Chỉ huy Cách mạng (RCC), các bộ trưởng, thành viên ban lãnh đạo khu vực của Baath, các lãnh đạo công đoàn và những người được cựu tổng thống đề cử. [Đây là mốc Saddam Hussein chính thức trở thành lãnh đạo tối cao Iraq]
-1979 - Tại hội nghị các nước không liên kết ở Havana, Hussein hứa sẽ cung cấp các khoản vay dài hạn không lãi suất cho các nước đang phát triển bằng số tiền nhận được từ giá dầu tăng, gây ra sự hoan nghênh nhiệt liệt từ khán giả (và thực sự đã mang lại một khoản tài trợ một phần tư tỷ đô la)
-1979 - Tại hội nghị các nước không liên kết ở Havana, Hussein hứa sẽ cung cấp các khoản vay dài hạn không lãi suất cho các nước đang phát triển bằng số tiền nhận được từ giá dầu tăng, gây ra sự hoan nghênh nhiệt liệt từ khán giả (và thực sự đã mang lại một khoản tài trợ một phần tư tỷ đô la)
-17 tháng 9, 1979 - Iraq tuyên bố đơn phương bác bỏ thỏa thuận Algeria năm 1975 về việc thiết lập biên giới với Iran tại khu vực sông Shatt al-Arab dọc theo đường trung tâm của sông.
-1979 – Chính phủ Hồi giáo Iran, do Khomeini đứng đầu, yêu cầu Iraq chuyển các đền thờ dòng Shitte/Shia nằm ở Karbala và Najaf (các thánh địa thuộc lãnh thổ Iraq) tới thành phố Qom của Iran. Baghdad phản ứng tiêu cực gay gắt. [Năm 1979, Iran đã tiến hành cách mạng Hồi giáo, đưa phe Hồi giáo chiếm lấy quyền lực]
-7 tháng 10, 1979 - Vụ tấn công lãnh sự quán Iraq ở Khorramshahr (Iran). Chính quyền Iran đã chính thức đổi tên Vịnh Ba Tư thành Vịnh Hồi giáo. Các tổ chức bí mật của người Shiite đang bắt đầu được thành lập ở Iraq.
-Tháng 10 năm 1979 - Khi ở thành phố Najaf linh thiêng của người Shiite, S. Hussein đã trình diễn một bức tranh vẽ về cây gia phả truy tìm tổ tiên của ông với Nhà tiên tri Muhammad.
-1980 – Xung đột liên tục ở biên giới Iraq-Iran.
-1 tháng 4, 1980 – Trong cuộc gặp của sinh viên Đại học Al-Mustansiriya với Phó Thủ tướng Iraq Tarek Aziz, một quả bom đã được ném vào ông. Nhiều người thiệt mạng, T. Aziz choáng váng. Ngày hôm sau, phát biểu tại hiện trường vụ nổ, Saddam Hussein đổ lỗi cho Iran về vụ ám sát.
-5 tháng 4, 1980 – Trong lễ tang các nạn nhân của vụ ám sát tại một trường đại học, một quả bom đã được ném vào đám đông từ cửa sổ của một trường học ở Iran, khiến nhiều người thiệt mạng.
-8 tháng 4, 1980- Saddam Hussein ra lệnh xử tử người đứng đầu người Shiite ở Iraq, Đại giáo chủ Ayatollah Mohammed Bakr Sadr, và em gái của ông ta. Người Iraq đã ném bom thành phố Qasre Shirin của Iran, một trong những trung tâm di cư của người Shiite ở Iraq.
-Tháng 4 năm 1980 - Trong chuyến thăm Damascus, Ngoại trưởng Iran Sadeq Ghotbzadeh nói rằng Saddam Hussein được cho là đã bị giết trong một cuộc đảo chính quân sự và Iran sẵn sàng hỗ trợ phe đối lập Iraq. Có lẽ một trong những nhân vật cao cấp của Saddam đã thực sự bị giết ở Iraq. Năm 1983, trợ lý tổng thống Iraq, Mahdi Mahmoud, bị giết trong một vụ đọ súng ở Amara; Trong một vụ ám sát khác năm 1986, một nhân vật khác, Nadar Rafia, đã bị giết.
-Mùa xuân năm 1980 - Iraq kêu gọi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc yêu cầu Iran ngay lập tức trao trả các đảo Musa, Greater và Lesser Tunb ở eo biển Hormuz, bị sáp nhập vào năm 1971. Đáp lại, Khomeini kêu gọi người dân Iraq lật đổ chế độ Saddam Hussein, “kẻ thù của kinh Koran và Hồi giáo”.
-Tháng 7 năm 1980 – Tại một cuộc họp báo dành cho các nhà báo nước ngoài, Iraq tuyên bố sẽ không “ngồi yên” trước các hành động xâm lược từ Iran, trong đó Iraq thống kê được 244 hành động gây hấn trong khoảng thời gian từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 26 tháng 7.
-Tháng 8 năm 1980 - S. Hussein, cùng với những thành viên nổi bật nhất trong ban lãnh đạo đất nước, đã thực hiện lễ hajj tới Mecca. Chuyện về chuyến viếng thăm Mecca đã được phát sóng khắp thế giới Ả Rập, nơi Saddam, mặc áo choàng trắng, thực hiện một nghi lễ đi vòng quanh Kaaba, cùng với Thái tử Ả Rập Saudi, Fahd.
-4-6 tháng 9, 1980 - Xung đột vũ trang nghiêm trọng ở biên giới Iran-Iraq sử dụng pháo hạng nặng, máy bay và tàu. Sự khởi đầu thực sự của cuộc chiến tranh Iran-Iraq.
-8 tháng 9, 1980 - Đại biện lâm thời Iran ở Baghdad được trao một bản ghi nhớ nêu rõ rằng Iraq, để tự vệ, buộc phải ngăn chặn việc chiếm đóng khu vực Zein al-Qaws. Tài liệu bày tỏ hy vọng rằng Iran sẽ tình nguyện trao trả các vùng lãnh thổ của Iraq trước đây bị Iran chiếm giữ. Ghi chú này vẫn chưa được trả lời.
-9 tháng 9, 1980 – Quân đội Iraq đẩy quân Iran ra khỏi khu vực Zein al-Kaws. Đến ngày 16 tháng 9, Iraq đã “giải phóng 125 dặm vuông lãnh thổ thuộc về mình theo Thỏa thuận Algiers”. Đáp lại, Iran đã đóng cửa không phận của mình với Iraq và cấm di chuyển qua Shatt al-Arab và eo biển Hormuz.
-17 tháng 9, 1980 - Tại cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Quốc gia Iraq, Saddam Hussein tuyên bố đơn phương hủy bỏ Thỏa thuận Algiers và tuyên bố rằng Shatt al-Arab nên trở thành lãnh thổ Ả Rập và Iraq.
-21 tháng 9, 1980 – Iran ra lệnh cho tất cả các tàu buôn rời khỏi Shatt al-Arab.
-22 tháng 9, 1980 - Iraq bắt đầu một cuộc chiến tranh quy mô lớn chống lại Iran, mục đích là sáp nhập tỉnh Khuzistan giàu dầu mỏ, mà đảng Baath gọi là "Arabistan", và thiết lập toàn quyền kiểm soát đường thủy trên sông Shatt al-Arab. Một ngày trước đó, S. Hussein đã hứa với Đại sứ Liên Xô Anatoly Barkovsky, người đang đi nghỉ, rằng sẽ không có hoạt động quân sự lớn nào chống lại Iran trong tương lai gần.
-27 tháng 9, 1980 – Quân đội Iraq chiếm Ahwaz.
-5 tháng 10, 1980 – Do giao tranh ác liệt gần Abadan, quân đội Iraq bị chặn đứng. Kế hoạch chấm dứt chiến tranh nhân lễ Eid al-Adha (20/10) của Saddam Hussein sụp đổ. Iraq tuyên bố sẵn sàng quay trở lại vị trí ban đầu
-Tháng 11, 1980 – Người Iraq chiếm Khorramshahr. Dọc theo hơn 350 km biên giới Iran-Iraq, quân đội Iraq đã xâm chiếm lãnh thổ nước láng giềng từ 10 đến 40 km.
-Tháng 1 năm 1981 - Cuộc tấn công của Iran ở khu vực Dizful-Susengerd; Kết quả của một trận chiến xe tăng ác liệt, quân Iran đã bị chặn đứng sau khi mất 140 xe tăng (người Iraq mất 50).
-Từ tháng 2 đến đầu tháng 3, 1981 - Phái đoàn thiện chí Hồi giáo, bao gồm các tổng thống Guinea, Pakistan, Bangladesh và Gambia, cũng như Yasser Arafat [lãnh đạo người Palestine] và Tổng thư ký của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo, đã đến thăm Baghdad và Tehran, nhưng đã không thể hòa giải được các đối thủ.
-Tháng 5 năm 1981 – Lò phản ứng hạt nhân Osirak của Iraq, được xây dựng với sự giúp đỡ của Pháp, bị phá hủy bởi một cuộc không kích của Israel
-Tháng 5 năm 1981 – Máy bay ném bom của Iran tự do bay qua toàn bộ lãnh thổ Iraq, ném bom các căn cứ của Iraq ở biên giới với Syria.
-Tháng 5 năm 1981 – Máy bay ném bom của Iran tự do bay qua toàn bộ lãnh thổ Iraq, ném bom các căn cứ của Iraq ở biên giới với Syria.
-Tháng 7-tháng 8, 1981 - Một số cuộc phản công thành công của Iran, gây thiệt hại đáng kể cho quân đội Iraq
-Tháng 9 năm 1981 - Iran phản công ở miền nam; Pháo binh Iran có khả năng bắn phá Basra [thành phố cảng tối quan trọng của Iraq]
-Từ tháng 3 đến tháng 5, 1982 - Trong các Chiến dịch Fatah và Beit al-Moqaddas, người Iran đã đẩy lùi quân đội Iraq, lực lượng đã rút lui gần như đến biên giới quốc gia trước chiến tranh. Tổng thống Iran Khamenei ấn định số tiền bồi thường mà Iraq cần trả 150 tỷ USD (sau đó giảm xuống còn 135 tỷ USD và sau đó lại tăng lên 163 tỷ USD).
-Tháng 4 năm 1982 - Syria đóng cửa đường ống dẫn dầu Kirkuk-Địa Trung Hải, qua đó làm giảm đáng kể lượng xuất khẩu dầu của Iraq.
-1982 – Iraq tuyên bố phong tỏa cảng dầu chính của Iran trên đảo Kharg, nói rằng tất cả tàu thuyền trong khu vực sẽ bị đánh chìm mà không báo trước. Tehran tuyên bố các tàu nước ngoài tiếp cận Iraq sẽ bị tấn công từng tàu một. Năm 1983, 45 tàu thương mại bị tấn công, năm 1984 - 67, năm 1985 - 83, năm 1986 - 105, năm 1987 - 178.
-10 tháng 6, 1982 – Iraq đưa ra tuyên bố sẵn sàng ngừng bắn và rút quân trong vòng hai tuần
-13 tháng 7, 1982 – Quân đội Iran phát động một cuộc tấn công không thành công vào Basra (Chiến dịch Ramadan), kết thúc mà hầu như không có kết quả.
-Tháng 11 năm 1982 - Trận chiến khốc liệt ở vùng Naft Shah.
-1983 – Chính quyền Ronald Reagan loại bỏ Iraq khỏi danh sách “các chế độ bảo trợ khủng bố”.
-22 tháng 7, 1983 - Cuộc xâm lược của quân đội Iran ở phía bắc với sự hỗ trợ của quân đội người Kurd.
-Tháng 10 năm 1983 - Iran mở rộng thành công bằng cách chiếm được 400 km2 đất ở khu vực Panjwin ở miền bắc Iraq. Đáp lại, Iraq đã tiến hành các cuộc tấn công tên lửa vào các thị trấn biên giới của Iran ở phía nam, ngăn chặn cuộc tấn công của Iran.
-Tháng 2, 1984 - “Trận chiến điên cuồng” giành các đảo nhỏ ở Majnun trong một khu vực đầm lầy gần thành phố El-Qurnah, với sự tham gia của tới nửa triệu người ở cả hai bên. Theo phía Iran, Iraq đã sử dụng vũ khí hóa học (rất có thể là khí mù tạt).
-13 tháng 5, 1984 - Iran bắt đầu “cuộc chiến chống lại tàu chở dầu” ở Vịnh Ba Tư bằng cuộc tấn công trên không vào hai tàu chở dầu của Kuwait; cho đến giữa năm 1986, hơn 200 tàu từ các nước khác nhau đã bị hư hại. Tỉ số trong “cuộc chiến chống tàu chở dầu” không nghiêng về phía Iran: họ làm hư hại 25 tàu chở dầu của Iraq, còn đối thủ lại làm hư hại 65 tàu chở dầu của Iran. Với lý do vi phạm quyền tự do hàng hải, lực lượng Hải quân Mỹ, trong đó có tàu sân bay Midway, đã được điều đến khu vực hoạt động quân sự.
-5 tháng 6, 1984 – Các máy bay chiến đấu của Saudi, với sự trợ giúp của máy bay AWACS của Mỹ, đã bắn hạ hai máy bay quân sự của Iran.
-12 tháng 6, 1984 – Thông qua sự hòa giải của Liên Hợp Quốc, Iran và Iraq đã đạt được thỏa thuận tạm thời đình chỉ các cuộc tấn công vào các mục tiêu dân sự (vi phạm vào tháng 3 năm 1985).
-1984 – Người Iran đã chọc thủng được tuyến phòng thủ của Iraq ở phía bắc Basra và chiếm giữ một đầu cầu ở khu vực đầm lầy Howeize.
-1984 – Iraq và Hoa Kỳ tái lập quan hệ ngoại giao.
-Tháng 3 năm 1985 - “Cuộc chiến chống lại các thành phố” bắt đầu: Tên lửa hành trình của Iran bắn vào Baghdad và các khu vực đông dân cư khác ở Iraq. Đáp lại, Iraq bắt đầu ném bom lớn vào các thành phố của Iran.
-Tháng 3 năm 1985 - Cuộc “tổng tấn công” của Iran thất bại, dẫn đến tổn thất nặng nề.
-Tháng 9 năm 1985 - Cuộc tấn công mới vào khu vực Quần đảo Majnun; Tiến sâu vào lãnh thổ Iraq, quân đội Iran tạo ra mối đe dọa cô lập cảng Basra.
-Tháng 12 năm 1985 - Saddam Hussein đến thăm Moscow và gặp Gorbachev.
-1986 - Saddam Hussein kết hôn với Samira Shahbandar lần thứ hai.
-9 tháng 2, 1986 - Sau khi huấn luyện các đội thợ lặn, người Iran, sử dụng cầu phao lắp ráp dưới nước, thiết lập một chiến dịch vượt qua Shatt al-Arab và chiếm thành phố Faw ở cửa sông (Chiến dịch Al-Fajr). Sau đó, quân đội Iran bắt đầu tiến về phía Basra, nhưng quân Iran không chiếm được hoặc cắt đứt được nó, mặc dù cả hai bên đều bị tổn thất nghiêm trọng.
-18 tháng 2, 1986 - Vòng vây đối với Basra bị loại bỏ. Cuộc chiến bị đình trệ trên chiến trường. Đồng thời, cuộc chiến chống lại các thành phố và tàu chở dầu vẫn tiếp tục.
-Giữa tháng 12, 1986 - Cuộc tấn công mới của Iran ở phía nam, gần Basra. Quân đội Iran đã vượt qua Shatt al-Arab, nhưng vấp phải sự kháng cự quyết liệt nên buộc phải rút lui.
-6 tháng 1, 1986 - Cuộc tấn công mới của quân đội Iran vào Basra. Đến ngày 26/2, quân Iran đã bị chặn lại cách thành phố 10-12 km. Saddam Hussein ra lệnh ném bom Tehran, Qom và Isfahan. Đáp lại, Iran tiến hành các cuộc tấn công vào Baghdad và Basra.
-Tháng 3 năm 1987 - Iran phát động một cuộc tấn công ở khu vực người Kurd ở Iraq và với sự hỗ trợ của người Kurd, đã phát động một cuộc tấn công vào Sulaymaniyah, nhưng bị chặn lại ở ngoại ô thành phố.
-Tháng 5 năm 1987 - Các báo cáo về một cuộc gặp bí mật giữa Saddam Hussein và Tổng thống Syria Hafez al-Assad diễn ra tại Damascus vào tháng 4 thông qua sự trung gian của Vua Hussein của Jordan. Những nỗ lực của Syria, quốc gia duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Tehran, không phải là vô ích: vào tháng 1 năm 1988, Iran, Iraq, Ả Rập Saudi và Kuwait tuyên bố tạm dừng các cuộc tấn công vào tàu biển trong 6 tháng. Việc hòa giải cũng giúp ngăn chặn một cuộc tấn công lớn của Iran được lên kế hoạch vào tháng 2 năm 1988.
-21 tháng 9, 1987 – Hải quân Hoa Kỳ bắn vào tàu vận tải Iran ở khu vực Bahrain.
-Cuối năm 1987 - Tổng thư ký LHQ Perez de Cuellar thăm Baghdad và Tehran. Iraq đã đồng ý chấm dứt các hành động thù địch bằng điều kiện rút quân Iran khỏi lãnh thổ của mình và bổ nhiệm một ủy ban quốc tế để điều tra nguyên nhân của cuộc xung đột. Iran sẵn sàng chấm dứt chiến tranh với điều kiện Iraq bị coi là kẻ xâm lược. Kết quả của chuyến thăm, một nghị quyết đã được chuẩn bị, theo đó các đại diện đặc biệt của Liên hợp quốc sẽ tổ chức tham vấn với các bên tham chiến và xác định ngày “D-Day” - ngày bắt đầu thỏa thuận ngừng bắn.
-Cuối tháng 5 năm 1988 - Iran và Iraq cam kết không vượt qua biên giới quốc gia và không xâm chiếm lãnh thổ của nhau trong quá trình giải phóng vùng đất của mình. Nhờ thỏa thuận này, quân đội Iraq đã có thể giành lại lãnh thổ ở khu vực Majnun và Panjwin cũng như ở một số nơi khác.
-14 tháng 7, 1988 - Một cuộc họp của các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị và quân sự cấp cao được tổ chức tại Tehran, tại đó người ta quyết định đồng ý với kế hoạch hòa bình của Liên Hợp Quốc theo nghị quyết 598. Vào ngày 17 tháng 7, Ayatollah Khomeini đã gửi thư cho Cơ quan An ninh Hội đồng, chính thức công bố thông qua kế hoạch hòa bình. Cùng ngày, Saddam Hussein công bố kế hoạch chấm dứt xung đột, bao gồm đình chiến, rút quân Iran, trao đổi tù nhân, ký hiệp ước hòa bình, hiệp ước không xâm lược và thỏa thuận không can thiệp công việc nội bộ của nhau và việc duy trì an ninh trong khu vực của cả hai nước.
-28 tháng 7, 1988 - Quân đội Iraq tấn công dọc toàn bộ mặt trận. Ở phía nam, Ahwaz lại bị đe dọa chiếm giữ; ở trung tâm, quân Iraq chiếm các thành phố Islamabad-Gerb và Kerend. Với cái giá phải trả là thương vong đáng kể, Iran đã đẩy lùi được cuộc tấn công.
-8 tháng 8, 1988 – Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc tuyên bố rằng D-Day sẽ diễn ra vào lúc 3 giờ sáng ngày 20 tháng 8.
-9 tháng 8, 1988 - Ngày này được Saddam Hussein tuyên bố là “ngày đại thắng”. Lễ kỷ niệm bắt đầu trong nước, trong đó tổng thống được gọi là vị cứu tinh của dân tộc.
-20 tháng 8, 1988 - Ayatollah Khomeini công nhận Nghị quyết 598 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và xóa bỏ khẩu hiệu “Chiến tranh để giành thắng lợi!” và đồng ý đình chiến với Iraq. Chiến tranh Iran-Iraq trở thành cuộc chiến tranh khu vực dài nhất thế kỷ 20, dẫn đến thương vong đáng kể (số người thiệt mạng dao động từ 0,5 đến 1 triệu người). Iraq đã tích lũy một khoản nợ nước ngoài khổng lồ (theo nhiều ước tính khác nhau, từ 60 đến 80 tỷ USD).
-Tháng 9 năm 1988 – Quân đội Iraq sử dụng vũ khí hóa học hủy diệt hàng loạt chống lại người Kurd ở vùng Halabja
-Tháng 2 năm 1989 – Iraq và Ai Cập hợp nhất thành lập Hội đồng Hợp tác Ả Rập (ACC), một tổ chức được thành lập nhằm đối trọng với ảnh hưởng ngày càng tăng của Ả Rập Saudi.
-1990 - Saddam Hussein bước vào cuộc hôn nhân thứ ba với Nida.
-Tháng 5 năm 1990 – Tại hội nghị thượng đỉnh Ả Rập ở Baghdad, Saddam Hussein kêu gọi thành lập một mặt trận thống nhất chống lại sự xâm lược của nước ngoài, nghĩa là phương Tây. Tuy nhiên, Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarak không chia sẻ lời kêu gọi này, cho rằng “sứ mệnh Ả Rập phải nhân đạo, logic và thực tế, không cường điệu hóa vai trò và đe dọa…”. Việc xích lại gần nhau giữa Ai Cập và Iraq sau đó đã trở nên vô nghĩa.
-Tháng 4 năm 1990 - Một phái đoàn đại diện gồm các thượng nghị sĩ Mỹ đã đến thăm Baghdad và trong cuộc gặp với Saddam, đã đảm bảo với ông rằng chế độ Baghdad được quan chức Washington đánh giá cao.
-25 tháng 7, 1990 - Saddam Hussein có cuộc trò chuyện kéo dài một giờ với Đại sứ Mỹ, bà April Glaspie. Người ta đã viết nhiều về cuộc trò chuyện này, diễn ra vào đêm trước cuộc xâm lược Kuwait của quân đội Iraq. Phía Iraq công bố đoạn ghi âm, trong đó đại sứ Mỹ nói rõ rằng Mỹ sẽ coi hành động của Iraq nhằm giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Kuwait là vấn đề nội bộ Ả Rập. Người Mỹ cho rằng đoạn ghi âm chưa đầy đủ nhưng họ không phủ nhận sự thật về những gì Glaspie đã nói. Hai ngày trước khi Iraq bắt đầu xâm lược Kuwait, E. Glaspie đi nghỉ.
-2 tháng 8, 1990 – Bắt đầu cuộc xâm lược của Iraq chống lại Kuwait, quốc gia mà Saddam nợ 18 tỷ USD trong Chiến tranh Iran-Iraq.
-18 tháng 7 năm 1990 – Iraq cáo buộc Kuwait chiếm đoạt dầu mỏ từ mỏ biên giới Nam Rumaila kể từ năm 1980. Để bồi thường, Baghdad yêu cầu Kuwait trả 2,4 tỷ USD và xóa khoản nợ của Iraq với Kuwait số tiền 10 tỷ USD. Sau đó, Iraq yêu cầu Kuwait cho Iraq thuê các đảo Bubiyan và Warbah ở cửa sông Shatt al-Arab. Kuwait phủ nhận các cáo buộc và từ chối nhượng bộ việc trả tiền. Một số quốc gia Ả Rập đã cố gắng đóng vai trò hòa giải để giải quyết xung đột nhưng vô ích.
-21 tháng 7 năm 1990 - Iraq cáo buộc Kuwait có các chính sách thân Mỹ và tham gia vào một “âm mưu chống lại quốc gia Ả Rập”.
-31 tháng 7, 1990 – Các cuộc đàm phán giữa Iraq-Kuwait bắt đầu ở Ả Rập Saudi, ở Jeddah, nhưng bị Iraq làm gián đoạn một ngày sau đó.
-2 tháng 8 năm 1990 – Quân đội Iraq xâm chiếm Kuwait theo yêu cầu của “Chính phủ lâm thời Kuwait tự do” [chính quyền bù nhìn do Iraq tạo ra]. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết 660, yêu cầu quân đội Iraq rút quân ngay lập tức. Bộ Ngoại giao Liên Xô tuyên bố đình chỉ cung cấp quân sự của Liên Xô cho Iraq. Mỹ đã đóng băng tài sản ngân hàng của Iraq.
-4 tháng 8, 1990 - Baghdad thông báo rằng 140.515 tình nguyện viên Iraq đã bày tỏ mong muốn phục vụ trong quân đội theo yêu cầu của "Chính phủ tự do lâm thời của Kuwait".
-6 tháng 8, 1990 – Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc quyết định áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế rộng rãi đối với Iraq (nghị quyết 661).
-8 tháng 8, 1990 - Việc sáp nhập Iraq và Kuwait thành một quốc gia (liên bang) được công bố. 300 nghìn người nhập cư Palestine đã nhận được quyền công dân của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Kuwait. Tổng thống Mỹ quyết định gửi quân tới Ả Rập Saudi.
-9 tháng 8, 1990 – Các đơn vị quân đội Hoa Kỳ đầu tiên đến Ả Rập Saudi.
-10 tháng 8, 1990 – Các nước tham gia cuộc họp khẩn cấp của các nguyên thủ quốc gia Ả Rập được tổ chức tại Cairo lên án gay gắt hành động xâm lược của Iraq đối với Kuwait và yêu cầu quân đội Iraq rút quân. 12 quốc gia đã bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết, ba quốc gia phản đối (Iraq, Libya và PLO/Palestine), hai quốc gia bỏ phiếu trắng (Algeria và Yemen), và 3 nước Jordan, Sudan, Mauritania ủng hộ nghị quyết với sự thảo luận thêm. Một số quốc gia Ả Rập (Ai Cập, Syria, Maroc) đã quyết định gửi quân tới Ả Rập Saudi để bảo vệ nước này khỏi sự xâm lược có thể xảy ra. Để đối trọng với Iraq, trục Cairo-Riyadh-Damascus được hình thành.
-11 tháng 8, 1990 - Các cuộc họp của NATO và Thị trường chung châu Âu [tiền thân EU] ở cấp bộ trưởng ngoại giao diễn ra tại Brussels trong một ngày. Tại cả hai cuộc gặp, yêu cầu khôi phục chủ quyền của Kuwait đã được đưa ra. Tổng thư ký NATO M. Werner nói rằng hành động tập thể của liên minh chống lại Iraq bị loại trừ vì Vịnh Ba Tư không nằm trong khu vực hành động của NATO.
-12 tháng 8, 1990 - Saddam Hussein đưa ra “sáng kiến” rút quân Iraq khỏi Kuwait, sau khi quân đội Israel rút khỏi các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng của người Palestine.
-14 tháng 8, 1990 – Các đơn vị đầu tiên của lực lượng liên Ả Rập ở Vịnh Ba Tư bắt đầu đến Ả Rập Saudi.
-14 tháng 8, 1990 - Baghdad đề nghị Iran hòa bình và tuyên bố bắt đầu rút quân khỏi những phần lãnh thổ Iran mà người Iraq chiếm đóng sau khi kết thúc cuộc chiến kéo dài 8 năm với Iran. Iraq cũng tuyên bố rằng họ sẵn sàng trao đổi tù nhân chiến tranh và sẵn sàng tuân theo thỏa thuận Algiers năm 1975 về biên giới dọc theo Shatt al-Arab. Đáp lại, Iran đã đồng ý biến lệnh ngừng bắn hiện có sau chiến tranh Iran-Iraq thành một “nền hòa bình lâu dài và ổn định”.
- 18 tháng 8, 1990 - Baghdad tuyên bố rằng công dân của "các quốc gia thù địch" sẽ được bố trí tại các địa điểm chiến lược của Iraq như "lá chắn sống" chống lại một cuộc tấn công có thể xảy ra.
-24 tháng 8, 1990 - Tổng bí thư M. Gorbachev gửi một thông điệp cá nhân tới Saddam Hussein, kêu gọi ông ta tuân thủ các yêu cầu của Liên hợp quốc, nếu không Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc sẽ buộc phải thực hiện “các biện pháp bổ sung thích hợp”.
-25 tháng 8, 1990 – Baghdad và Tehran khôi phục quan hệ ngoại giao. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cho phép sử dụng vũ lực chống lại Iraq. Một số lượng đáng kể công dân Liên Xô đã được sơ tán khỏi Iraq.
-28 tháng 8, 1990 – Iraq tuyên bố Kuwait là tỉnh thứ 19 của mình.
-5 tháng 9, 1990 - Tổng bí thư Liên Xô M. Gorbachev đã tiếp đón, theo yêu cầu của S. Hussein, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Iraq Tarek Aziz. Mục tiêu chính thức là trao đổi quan điểm trước cuộc gặp giữa M. Gorbachev và tổng thống Mỹ G.Bush ở Helsinki.
-7 tháng 9, 1990 – Các nhóm con tin lớn, chủ yếu là công dân Anh, Mỹ và Pháp, bị đưa vào các địa điểm chiến lược ở Iraq.
-9 tháng 9, 1990 - Trong tuyên bố chung của George Bush và Mikhail Gorbachev ở Helsinki, cả hai tổng thống đều tuyên bố rằng họ “sẽ có quan điểm thống nhất chống lại sự xâm lược của Iraq”.
-13 tháng 9, 1990 - George Bush, phát biểu tại Quốc hội Hoa Kỳ, nói rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ hòa giải với việc Iraq chiếm đóng Kuwait.
-25 tháng 9, 1990 – Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mở rộng việc phong tỏa Iraq tới không phận.
-27 tháng 9, 1990 - 25 quốc gia vào thời điểm này đã gửi quân đội của họ đến Ả Rập Saudi và UAE.
-2 tháng 10, 1990 – Bộ Ngoại giao Liên Xô cáo buộc Iraq chậm trễ trong việc cho phép các chuyên gia Liên Xô còn lại ở Iraq rời đi.
-6 tháng 10, 1990 - Đại diện cá nhân của Tổng thống Liên Xô [từ năm 1990, Gorbachov xưng là Tổng thống Liên Xô], thành viên Hội đồng Tổng thống E.M. Primkov đã gặp S. Hussein. Tổng thống Iraq đảm bảo rằng “không có cơ sở chính trị nào để hạn chế sự trở về của công dân Liên Xô”.
-12 tháng 10, 1990 - Một đại diện của Bộ Quốc phòng Iraq cảnh báo rằng nếu Liên Xô chuyển thông tin về tiềm năng quân sự của Iraq cho Hoa Kỳ, việc sơ tán công dân Liên Xô sẽ bị dừng lại "vì bí mật quân sự của Iraq".
-Giữa tháng 10, 1990 - Bộ trưởng Ngoại giao E. Shevardnadze tuyên bố khả năng cử một đội quân của Liên Xô đến Vịnh Ba Tư dưới lá cờ Liên Hợp Quốc, điều này đã gây ra sự phản đối gay gắt từ các đại biểu Xô Viết Tối cao Liên Xô.
-17 tháng 10, 1990 – Hơn 200 nghìn lính Mỹ tập trung ở vùng Vịnh Ba Tư.
-22 tháng 10, 1990 - Báo chí Ả Rập xuất hiện các báo cáo về giấc mơ tiên tri của Saddam Hussein, người mà Nhà tiên tri Muhammad đã xuất hiện và khuyên ông nên rút quân khỏi Kuwait.
-28 tháng 10, 1990 - Đại diện cá nhân của Tổng thống Liên Xô, thành viên Hội đồng Tổng thống E.M. Primkov đã gặp S. Hussein. và vào cuối cuộc họp, ông tuyên bố rằng tất cả các chuyên gia Liên Xô bày tỏ mong muốn được trở về quê hương sẽ được trao cơ hội như vậy.
-29 tháng 10, 1990 – Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết 674, nhằm chấm dứt hành động xâm lược của Iraq chống lại Kuwait.
-8 tháng 11, 1990 - George W. Bush tuyên bố điều động thêm 200 nghìn binh sĩ tới Vịnh Ba Tư.
-19 tháng 11, 1990 - Iraq tăng lực lượng quân sự ở Kuwait lên 700 nghìn người.
-26 tháng 11, 1990 - Tiếp đón Ngoại trưởng Iraq Tarek Aziz, M. Gorbachev một lần nữa xác nhận rằng Liên Xô nhất quyết yêu cầu quân Iraq rút khỏi Kuwait.
-29 tháng 11, 1990 - Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết 678 với hai phiếu chống (Cuba và Yemen) và một phiếu trắng (CHND Trung Hoa), yêu cầu Iraq "tạm dừng thiện chí" cho đến ngày 15 tháng 1 năm 1991 và cho phép sử dụng "tất cả các biện pháp cần thiết" sau đó "để rút quân Iraq khỏi Kuwait.
-30 tháng 11 năm 1990 – Baghdad bác bỏ tối hậu thư của Liên Hợp Quốc.
-21 tháng 12, 1990 – Một cuộc diễn tập sơ tán hơn 1 triệu cư dân đã được thực hiện ở Baghdad.
-22 tháng 12, 1990 - George Bush xác nhận rằng nếu Iraq không rút quân khỏi Iraq trước ngày 15 tháng 1 thì vũ lực sẽ được sử dụng để chống lại nước này. Iraq tuyên bố sẽ không rời Kuwait và sẽ sử dụng vũ khí hóa học nếu bị tấn công.
-24 tháng 12, 1990 – Iraq đe dọa rằng trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công quân sự, nước này sẽ tấn công Israel.
-8 tháng 1, 1991 - Tại cuộc gặp ở Geneva giữa J. Baker và T. Aziz, những người đứng đầu cơ quan ngoại giao của Hoa Kỳ và Iraq không thể đạt được sự hiểu biết lẫn nhau. J. Baker cảnh báo rằng nếu Iraq sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt thì nước này sẽ phải trả giá rất đắt cho việc đó. "Người dân Mỹ sẽ yêu cầu trả thù và chúng tôi có mọi phương tiện để làm điều đó."
-12 tháng 1, 1991 – Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nghị quyết cho phép sử dụng vũ lực chống lại Iraq.
-13 tháng 1, 1991 – Tổng thư ký LHQ Perez de Cuellar gặp Saddam Hussein, nhưng không thuyết phục được ông ta rời Kuwait.
-14 tháng 1, 1991 – Quốc hội Iraq phê chuẩn “lập trường không khoan nhượng” của Saddam Hussein về vấn đề Kuwait.
-15 tháng 1, 1991 - Saddam Hussein tuyên bố rằng ông sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến chống lại liên minh chống Iraq. Trong số 7.791 công dân Liên Xô, 118 người vẫn ở Iraq, bao gồm cả nhân viên đại sứ quán.
-Đêm 17-18 tháng 1, 1991 - Vào lúc 0 giờ GMT (3 giờ Baghdad), một cuộc không kích được tiến hành nhằm vào các mục tiêu ở Iraq và Kuwait như một phần của Chiến dịch Bão táp Sa mạc. Trong những giờ đầu tiên, liên quân chống Iraq mất 3 máy bay (theo Iraq - 55). Sáng sớm ngày 18 tháng 1 - Iraq tiến hành các cuộc tấn công trả đũa bằng tên lửa vào các vùng ngoại ô Tal Aviv, Haifa và một số khu định cư khác của Israel; 12 người bị thương. Trong ngày 18 tháng 1, quân Đồng minh mất thêm 18 máy bay.
-19 tháng 1, 1991 - Israel lại bị tấn công bằng tên lửa (Tel Aviv và Jerusalem), 35 người bị thương. Một số hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot của Mỹ đã được triển khai khẩn cấp tới Israel.
-19 tháng 1, 1991 – Iraq bắt đầu cuộc chiến tranh môi trường ở vùng Vịnh bằng cách mở các van tại kho cảng dầu trên một hòn đảo nhân tạo ở cảng Ahmadi. Thảm họa đã được ngăn chặn nhờ một cuộc không kích vào đường ống dẫn dầu. Vài ngày sau, người Iraq đưa một số siêu tàu chở dầu đến bờ biển Kuwait, đổ hàng hóa của họ xuống biển.
-20 tháng 1, 1991 – Israel quyết định kiềm chế không trả đũa Iraq.
-21 tháng 1, 1991 - Kể từ khi bắt đầu chiến sự, máy bay Đồng minh đã thực hiện hơn 7 nghìn lượt xuất kích, mất 15 máy bay (theo Iraq - 160). Baghdad tuyên bố bố trí các phi công nước ngoài bị bắt tại các cơ sở chiến lược của mình làm “lá chắn sống”. Một số tên lửa của Iraq bắn vào Riyadh đã bị hệ thống tên lửa Patriot đánh chặn
-21 tháng 1, 1991 - Iraq bắt đầu cho nổ tung các bể chứa dầu và giếng dầu ở Kuwait một cách có hệ thống. Tổng cộng có khoảng 1.000 giếng bị hư hại, 727 giếng bị đốt cháy và một số khác tràn ra ngoài.
-22 tháng 1 năm 1991 – Một thỏa thuận cho vay được ký kết giữa Liên Xô và Kuwait nhằm cung cấp khoản vay trị giá 1 tỷ USD trong thời gian 7 năm.
-22 tháng 1, 1991 – Vào buổi tối, Iraq phát động cuộc tấn công thứ ba vào Israel, khiến 3 người thiệt mạng và 100 người bị thương.
-23 tháng 1, 1991 – Một quan chức Israel nói rằng nước ông sẽ đáp trả “một cách thận trọng” trước một cuộc tấn công tên lửa khác.
-26-29 tháng 1, 1991 - Các cuộc đàm phán giữa Ngoại trưởng Hoa Kỳ J. Baker và Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô A. Bessmertnykh, dẫn đến việc thông qua một tuyên bố Xô-Mỹ (28 tháng 1) về Vịnh Ba Tư, trong đó nêu rõ mong muốn tránh leo thang chiến tranh và rằng việc chấm dứt thù địch ở Vịnh Ba Tư có thể xảy ra nếu Iraq cam kết rút khỏi Kuwait.
-30 tháng 1 năm 1991 - Lực lượng Iraq tung ra bốn đợt xuất kích chống lại các lực lượng đa quốc gia, mỗi đợt có sức mạnh xấp xỉ một tiểu đoàn với sự yểm trợ của pháo binh. Một nhóm quân Iraq đã đột nhập vào làng Ras Khafji của Ả Rập Xê Út, nơi họ bị bao vây.
-10 tháng 2, 1991 - Tổng thống Liên Xô M. Gorbachev đưa ra một tuyên bố trong đó ông mời Saddam Hussein tiếp đại diện Liên Xô tại Baghdad để thảo luận về việc giải quyết xung đột.
-11 tháng 2 năm 1991 – Iraq tiến hành cuộc tấn công tên lửa thứ 13 vào Israel, khiến nhiều người bị thương. Tổng số thương vong ở Israel: 2 người chết, 289 người bị thương. Phó Thủ tướng Iraq Saadoun Hammadi cho biết khi ở Tunisia rằng Iraq sẵn sàng đàm phán về lệnh ngừng bắn nhưng không có điều kiện tiên quyết.
-12 tháng 2, 1991 – Đại diện cá nhân của Tổng thống Liên Xô Yevgeny Primkov đã đến Baghdad. Ngày hôm sau, anh gặp S. Hussein, người mà anh đã chuyển tải một thông điệp cá nhân từ M. Gorbachev. Sau cuộc gặp với S. Hussein, E. Primkov nói rằng bản chất của cuộc trò chuyện “là đáng khích lệ”. Người ta đã thống nhất rằng Bộ trưởng Ngoại giao Iraq T. Aziz sẽ đến Moscow vào ngày 17 tháng 2 để tiếp tục liên lạc Liên Xô-Iraq.
- 13 tháng 2, 1991 – Phó bộ trưởng Bộ Ngoại giao Kuwait Sheikh Sabah al-Ahmed al-Sabah đến Moscow trong một chuyến thăm làm việc ngắn hạn.
-13 tháng 2, 1991 - Máy bay của Không quân Mỹ ném bom một hầm tránh bom ở khu vực Al-Ameriya ở Baghdad, trong đó có dân thường, giết chết hơn 400 người (có 700 người trong hầm trú ẩn). Tổng cộng, kể từ khi bắt đầu Chiến dịch Bão táp Sa mạc, Lực lượng Không quân của các lực lượng đa quốc gia đã thực hiện 65 nghìn lượt xuất kích. Cùng ngày, Iraq phóng một tên lửa khác vào Israel và Ả Rập Saudi.
-14 tháng 2, 1991 - M. Gorbachev tiếp Phó Thủ tướng Bộ Ngoại giao Kuwait Sheikh Sabah al-Ahmed al-Sabah. Tổng thống Liên Xô khẳng định các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc phải được thực hiện. Trong các cuộc đàm phán giữa đại diện Kuwait và Bộ trưởng Ngoại giao A. Bessmertnykh, việc tạo ra một hệ thống an ninh tập thể ở Vịnh Ba Tư trong thời kỳ hậu khủng hoảng cũng đã được thảo luận.
-18 tháng 2, 1991 - Bộ trưởng Ngoại giao Iraq T. Aziz, người đến Moscow vào ngày 17 tháng 2, đã nhận được từ M. Gorbachev một kế hoạch giải quyết chính trị cho cuộc khủng hoảng ở Vịnh Ba Tư.
-19 tháng 2, 1991 - Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush nói rằng các đề xuất do Liên Xô đưa ra là không đầy đủ và “còn xa so với yêu cầu”.
-Đêm 21 rạng 22 tháng 2, 1991 - T. Aziz đến Mátxcơva lúc nửa đêm và lúc 0 giờ 10 phút đã gặp M. Gorbachev. Cuộc trò chuyện kéo dài 2 giờ 20 phút. M. Gorbachev đề xuất chính thức hóa kết quả đối thoại dưới hình thức 7 điểm: Iraq tuyên bố rút quân hoàn toàn và vô điều kiện khỏi Kuwait; việc rút quân bắt đầu vào ngày sau lệnh ngừng bắn; việc rút quân được thực hiện trong một thời hạn nhất định; sau khi 2/3 quân Iraq rút khỏi Kuwait, các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Iraq được dỡ bỏ; việc rút toàn bộ quân đội Iraq khỏi Kuwait cuối cùng sẽ loại bỏ các lý do để thông qua các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, do đó sẽ trở nên vô hiệu; ngay sau khi ngừng bắn, tù binh của cả hai bên được thả; việc kiểm soát việc rút quân thay mặt Hội đồng Bảo an được thực hiện bởi các quan sát viên từ các quốc gia không tham gia xung đột.
-23 tháng 2, 1991 - T. Aziz phát biểu tại trung tâm báo chí của Bộ Ngoại giao Liên Xô và tuyên bố rằng chính phủ Iraq hoàn toàn ủng hộ kế hoạch 6 điểm về giải pháp chính trị ở Vịnh Ba Tư, đạt được trong các cuộc đàm phán ở Moscow: Iraq đồng ý thực hiện nghị quyết 660 và rút toàn bộ lực lượng khỏi Kuwait về các vị trí mà họ chiếm giữ vào ngày 1 tháng 8 năm 1990; việc rút quân sẽ bắt đầu vào ngày sau khi ngừng bắn; việc rút quân sẽ được thực hiện trong vòng 21 ngày, trong đó 4 ngày đầu tiên - là để việc rút quân khỏi thủ đô Kuwait City; ngay sau khi hoàn thành việc rút quân, cơ sở cho các nghị quyết còn lại của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về Iraq hết hiệu lực; tất cả tù binh chiến tranh sẽ được trả tự do và hồi hương trong vòng 3 ngày sau khi ngừng bắn; việc ngừng bắn và rút quân sẽ được giám sát bởi các quan sát viên hoặc lực lượng gìn giữ hòa bình theo quyết định của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
-24 tháng 2, 1991 - Vào lúc bình minh, George Bush tuyên bố rằng ông đã ra lệnh bắt đầu các hoạt động trên bộ chống lại Iraq. Các hoạt động quân sự bắt đầu lúc 4 giờ trên một dải dài 240 km. 11 quốc gia thuộc liên minh chống Iraq đã tham gia cuộc tấn công. Đến sáng đến ngày 26 tháng 2, quân đồng minh ở hướng ven biển đã tiến 50 km và bắt đầu tấn công thủ đô Kuwait City;
-Đêm 25-26 tháng 2, 1991 - Lệnh của Saddam Hussein cho quân đội Iraq rời Kuwait được truyền qua đài phát thanh Baghdad. Vào thời điểm này, tổn thất của Iraq lên tới: về xe tăng và xe bọc thép chở quân - lên tới 25%, về pháo - lên tới 35%, về nhân sự - lên tới 25%. Khi bắt đầu chiến sự, nhóm phía nam của lực lượng vũ trang Iraq có hơn 500 nghìn người. (tổng cộng - 785 nghìn người), hơn 4 nghìn xe tăng (tổng cộng hơn 5 nghìn), hơn 6 nghìn khẩu pháo (tổng cộng hơn 8 nghìn), khoảng 60 tàu thuyền. Hàng không Iraq (hơn 800 máy bay) đã bị tê liệt ngay trong những ngày đầu xung đột. Nhóm liên minh chống Iraq bao gồm quân đội từ 26 quốc gia và có hơn 730 nghìn người, khoảng 5,5 nghìn xe tăng, hơn 4 nghìn khẩu pháo, khoảng 2.400 máy bay và hơn 350 tàu thuyền.
-26 tháng 2, 1991 - Hoa Kỳ, dưới hình thức tối hậu thư, yêu cầu Saddam Hussein “cả cá nhân và công khai” tuyên bố đồng ý thực hiện tất cả các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
-Đêm 27-28 tháng 2, 1991 - Tổng thống Mỹ tuyên bố chấm dứt chiến sự ở Vịnh Ba Tư sau khi Iraq đồng ý thực hiện tất cả 12 nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về Kuwait. Dữ liệu chính thức về tổn thất của Iraq trong 6 tuần của Chiến dịch Bão táp Sa mạc đang được Baghdad giấu kín
-1 tháng 3, 1991 - Baghdad chấp nhận Nghị quyết 686 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, yêu cầu Iraq bồi thường cho Kuwait và các nước thứ ba về những tổn thất và trả lại tài sản bị tịch thu.
-Đầu tháng 3, 1991 - Lực lượng nổi dậy ở miền nam Iraq chiếm được Basra và 5 thành phố khác ở miền nam Iraq (Amara, Samawa, Nasiriyah, Diwaniyah và Kut). Phiến quân ở người Kurd ở Iraq đã chiếm được thành phố chính của khu vực, Sulaymaniyah. Các cuộc đụng độ ác liệt với quân đội chính phủ đang diễn ra ở một số thành phố khác, trong đó có Najaf. Iraq tuyên bố rằng họ đồng ý bãi bỏ luật pháp liên quan đến việc sáp nhập Kuwait. 27 nhà báo phương Tây đã mất tích khi cố gắng vào Basra để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra ở đó (sau đó họ được phát hiện đã bị chính quyền Iraq bắt giữ). [Đây là sự kiện Intifada lần 1 của người Shitte ở Iraq năm 1991, một sự kiện lớn hơn cả chiến tranh Vùng Vịnh nhưng ít được nói tới]
-9 tháng 3, 1991– Người Kurd nổi dậy chiếm được thành phố Erbil [Erbil là thủ đô của người Kurd, cùng với Sulaymaniyah là 2 thành phố lớn nhất]. Ở phía nam, lực lượng chính phủ Iraq đã xoay chuyển được tình thế.
-12 tháng 3, 1991 – Một hội nghị của các đảng và tổ chức đối lập Iraq khai mạc tại Beirut. 325 lãnh đạo và đại diện của 23 nhóm đã tham gia vào công việc. Mục tiêu chính là đảm bảo "sự ủng hộ cho cuộc nổi dậy do người dân Iraq dấy lên". Phiến quân người Kurd đã nắm quyền kiểm soát khu vực Kirkuk và bản thân thành phố Kirkuk cũng bị quân nổi dậy bao vây.
-14 tháng 3, 1991 – Tiểu vương Kuwait Sheikh Jaber al-Ahmed al-Jaber al-Sabah trở về quê hương.
- 24 tháng 3, 1991 – Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nới lỏng một số biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Iraq.
-3 tháng 4, 1991 - Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết 687, quy định việc phá hủy kho vũ khí hóa học và vi khuẩn, tiềm năng tên lửa của Iraq, thiết lập quyền kiểm soát quốc tế đối với việc lắp đặt hạt nhân và triển khai các quan sát viên của Liên Hợp Quốc tại vùng đệm giữa Iraq và Cô-oét. Một số dặm lãnh thổ tranh chấp với Kuwait đã được nhượng lại cho Kuwait. Một loại thuế đã được thiết lập đối với thu nhập từ xuất khẩu dầu của Iraq, khoản thuế này sẽ được trả như một khoản bồi thường cho Kuwait về những thiệt hại đã gây ra. Cuba bỏ phiếu chống, Yemen và Ecuador bỏ phiếu trắng.
-3 tháng 4 năm 1991 – Quân đội Iraq chiếm Sulaymaniyah, thủ đô không chính thức của người Kurd ở Iraq
-4 tháng 4, 1991 – Iraq tuyên bố tiêu diệt cuộc nổi dậy ở phía bắc đất nước. Khoảng 2 đến 3 triệu người Kurd ở Iraq đã chạy trốn đến các vùng núi phía Bắc Iraq và tới biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ. Có tới 70% dân số chạy trốn khỏi khu vực Kirkuk và Erbil.
-7 tháng 4, 1991 - Chiến dịch An Ủi bắt đầu đảm bảo an toàn cho người tị nạn người Kurd và dựng trại tị nạn sau khi chính quyền Iraq đàn áp các cuộc nổi dậy hàng loạt của người Kurd ở phía bắc và người Shiite ở phía nam đất nước. Một ngày trước đó, Liên hợp quốc đã lên án hành động đàn áp người Kurd và yêu cầu chính quyền Iraq đảm bảo quyền tiếp cận của các tổ chức nhân đạo quốc tế tới nước này bằng cách thông qua một nghị quyết tương ứng. Quân đội Mỹ, Pháp và Anh đã tham gia chiến dịch.
-Tháng 4 năm 1991 - Mặt trận Quốc gia người Kurd ở Iraq, sau thất bại của cuộc nổi dậy của người Kurd, đã bắt đầu đàm phán với chế độ Iraq. Phái đoàn người Kurd tại cuộc đàm phán do Masoud Barzani dẫn đầu. Các yêu cầu của người Kurd đã bị Baghdad từ chối, nơi bắt đầu phong tỏa kinh tế và hành chính đối với người Kurd.
-Tháng 10 năm 1991 – Trước sự yêu cầu của lãnh đạo các lực lượng đa quốc gia, Baghdad đã rút quân khỏi khu vực người Kurd ở Iraq. Vùng này bao gồm ba tỉnh - Erbil, Sulaymaniyah và Dohuk. Diện tích của nó là hơn 40 nghìn km2, dân số, theo ước tính năm 1994, vào khoảng ba triệu người, chiếm khoảng 15% dân số cả nước.
-26 tháng 8 năm 1992 – Hoa Kỳ áp đặt lệnh cấm máy bay quân sự Iraq bay về phía nam vĩ tuyến 32. Quyết định này được đưa ra nhằm ngăn chặn việc ném bom vào dân thường Iraq phản đối chế độ Saddam Hussein.
-1993 - Vào tháng 1 năm 1993, máy bay liên minh đã thực hiện các cuộc không kích vào các cơ sở phòng không của Iraq ở phía nam và phía bắc Iraq, và tấn công bằng tên lửa vào một khu công nghiệp ở ngoại ô Baghdad. Tháng 6 năm 1993, Mỹ tiến hành cuộc tấn công bằng tên lửa hành trình vào trụ sở tình báo Iraq nhằm đáp trả âm mưu ám sát cựu Tổng thống Bush.
-Tháng 4 năm 1995 - Theo Nghị quyết 986 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Iraq được phép xuất khẩu dầu hạn chế để đáp ứng nhu cầu lương thực (Baghdad chỉ công nhận nghị quyết này vào tháng 5 năm 1996)
-1995 – Nga ký một hợp đồng với Iraq để phát triển các mỏ dầu và khí đốt trị giá 10 tỷ USD, nhưng dưới áp lực của Washington đã đồng ý không bắt đầu thực hiện hợp đồng này cho đến khi các lệnh trừng phạt quốc tế chống lại Iraq được dỡ bỏ.
-9 tháng 9, 1996 – Trong một cuộc tấn công chớp nhoáng, quân đội Iraq đã chiếm Erbil, phá hủy trụ sở của "Quốc hội Iraq", một tổ chức của người Kurd do CIA thành lập và tài trợ. Nhân viên CIA trốn sang Thổ Nhĩ Kỳ. Đáp lại, Mỹ tiến hành tấn công tên lửa vào Iraq và mở rộng vùng cấm bay đối với máy bay Iraq đến vĩ tuyến 33. Pháp không công nhận quyết định này; máy bay của họ chỉ tiếp tục tuần tra đến vĩ tuyến 32.
-Tháng 12 năm 1996 - Tiếp tục xuất khẩu dầu của Iraq thông qua đường ống dẫn dầu qua cảng Yumurtalik trên bờ biển Địa Trung Hải của Thổ Nhĩ Kỳ.
-Cuối năm 1996 - Lực lượng vũ trang Iraq lên tới khoảng 360 nghìn người. và được trang bị 2.700 xe tăng, khoảng 3 nghìn xe chiến đấu bộ binh, 1.700 khẩu súng, 250 bệ phóng tên lửa đa năng.
-17 tháng 12, 1998 - Chiến dịch Desert Fox bắt đầu vào ngày 17 tháng 12 năm 1998 với một cuộc không kích chung giữa Mỹ và Anh vào Iraq nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng xung quanh việc kiểm tra các cơ sở quân sự của Iraq bởi các chuyên gia giải trừ quân bị quốc tế. Hoạt động có sự tham gia của 300 máy bay, 40 tàu và hơn 30 nghìn binh sĩ, kéo dài 72 giờ. 6.590 phi vụ đã được thực hiện và 415 tên lửa hành trình đã được bắn, đánh trúng 74 trong số 100 mục tiêu quân sự. Sau đó Đức ủng hộ hành động này. Pháp, Nga và Trung Quốc phản đối. Tổng thư ký LHQ lên án vụ đánh bom Iraq.
-1998 – Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton ký Đạo luật Giải phóng Iraq, cung cấp hỗ trợ cho các lực lượng đối lập ở Iraq.
-Tháng 4 năm 2001 – Mỹ và Anh tấn công một radar cảnh báo sớm di động để đáp trả hoạt động ngày càng tăng của Iraq chống lại máy bay liên minh ở vùng cấm bay phía nam.
-Ngày 2 tháng 2, 2002 - Cuộc không kích vào các hệ thống phòng không của Iraq "để đáp trả việc nổ súng vào máy bay"
-2003 - Tạp chí Forbes ước tính tài sản của Hussein vào khoảng hai tỷ đô la, tuy nhiên, theo nguồn tin của Mỹ, tài khoản của Saddam ít nhất là bảy tỷ. Theo truyền thông Nga, kể từ năm 1990, Tổng thống Iraq đã xây dựng 39 cung điện và dinh thự mới cho đoàn tùy tùng, đồng thời cải tạo 19 dinh thự hiện có trước đó. 30 trong số đó nằm gần Baghdad, 13 nơi khác ở quê hương ông - ở thành phố Tikrit.
-19 tháng 3 năm 2003 - Bắt đầu cuộc chiến giữa Iraq và liên minh chống Iraq (Mỹ, Anh, Úc, v.v.). Mục đích chính của cuộc xâm lược là lật đổ chế độ Saddam Hussein.
-7 tháng 4, 2003 - Người Mỹ báo cáo rằng Saddam Hussein rất có thể đã bị tiêu diệt khi một quả bom đánh trúng hầm chỉ huy ở Baghdad.
-9 tháng 4, 2003 – Quân đội Mỹ chiếm được Baghdad.
*******
Trên đây là tiểu sử Saddam Hussein từ lúc sinh ra tới thời điểm Mỹ xâm lược Iraq năm 2003, do các tác giả Nga thực hiện. Người viết sẽ cố gắng liên tục update hình ảnh minh họa và chú thích cần thiết cho bài. Trong lúc đó, sẽ tiếp tục cố gắng dịch phần đầu tiên của 3 cuộc chiến, là Chiến tranh Nam Kurdistan.
Lịch sử
/lich-su
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất