Bằng cách nào Việt Nam có thể thắng Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam?
Lời nói đầu:...
Lời nói đầu:
Chiến tranh Việt Nam (theo cách gọi quốc tế) hay kháng chiến chống Mỹ (theo cách gọi của Việt Nam) và nguyên nhân thắng lợi của phe ta thì có lẽ ai đọc bài viết này cũng đã được học thời phổ thông. Ở đây, mình không phủ nhận những kiến thức đã được học, mà chỉ phân tích kỹ hơn và rộng hơn một chút.
Bài viết này chủ yếu nói về nguyên nhân chiến thắng của phía Việt Nam (miền Bắc), vì vậy mình cũng sẽ tập trung hơn vào những lợi thế mà VNDCCH/CHMNVN có được và đã thực hiện để chiến thắng chứ không phải của Mỹ/VNCH. Vậy nên mong đừng có ai nói rằng mình phân tích một chiều hay phủ nhận công ơn của ai.
Vậy thì bằng cách nào Việt Nam có thể thắng được một siêu cường?

1. Tương quan sức mạnh quân sự và vũ khí
Mỹ/VNCH có tổng quân số được thống kê đông hơn, được đào tạo bài bản hơn, vượt trội về vũ khí chiến lược, với không quân và hải quân có thể nói rằng mạnh nhất thế giới ở thời điểm đó. Tuy nhiên chính vì thế, đội quân này cũng cần nhiều "tiền" hơn để vận hành.
Ở chiều hướng ngược lại, tuy thua thiệt về vũ khí hạng nặng nhưng VNDCCH lại không thua kém về vũ khí cá nhân, hay có thể nói rằng nhỉnh hơn so với đối thủ. AK tỏ ra phù hợp hơn trên chiến trường Việt Nam với sự đáng tin cậy, bền bỉ và ổn định. Súng chống tăng B40, B41 cũng rất lợi hại và hiệu quả. M16 với ưu điểm là nhẹ và chuẩn xác, tuy nhiên không được trang bị từ đầu cuộc chiến lại rất hay mắc phải một lỗi chí mạng là kẹt đạn.
Tổng kết: Với ưu thế về vũ khí chiến lược nhưng tốn kém, Mỹ sẽ thể hiện được sức mạnh của mình trong những trận chiến quy ước lớn với ranh giới rõ ràng và chiến đấu trong thời gian ngắn. Phía VNDCCH không thua thiệt về vũ khí cá nhân và cần ít nguồn lực sẽ rất mạnh trong chiến thuật du kích, tiêu hao trong thời gian dài ở chiến trường nhiều rừng dễ ẩn nấp như Việt Nam.
2. Chiến thuật và chiến trường
Như đã nói ưu điểm về vũ khí của hai bên, phía VNDCCH đã tận dụng tối đa lợi thế bằng chiến thuật chủ đạo là chiến tranh du kích và chiến tranh nhân dân. Luôn có thể chủ động đánh hoặc rút bất cứ lúc nào vì không có áp lực phải bảo vệ lãnh thổ, chiến trường không giới hạn ở cả ba nước Đông Dương. Địa hình nhiều núi và rừng cây đặc biệt phù hợp cho việc này. Thâm nhập dễ dàng cũng khiến quân CS dễ dàng hơn trong việc tổ chức ám sát những nhân vật quan trọng có tầm ảnh hưởng ở miền Nam mà không đứng về phía họ. Việc ẩn nấp trong dân cũng khiến cho quân Mỹ dễ "bắn nhầm" hơn khi một người già, phụ nữ hay trẻ em mặc thường phục đôi khi cũng trở nên nguy hiểm. Những cuộc thảm sát của quân Mỹ ở miền Nam đều trên danh nghĩa là "Tìm và diệt Cộng Sản". Miền Bắc đã tận dụng tối đa điều này để tuyên truyền về sự độc ác và phi nghĩa của Mỹ. Mỹ/VNCH cũng tố VNDCCH gây ra nhiều cuộc thảm sát, nhưng tất cả đều không được thừa nhận.
Lưu ý: Mình không tẩy trắng cho Mỹ cũng không ủng hộ cách họ làm, nhưng có điều phải thừa nhận rằng việc sử dụng chiến tranh nhân dân sẽ có những hệ quả khó tránh khỏi.
Mỹ/VNCH với ưu thế về quân sự nhưng không thể tận dụng một cách hiệu quả khi phải đối mặt với chiến thuật du kích ở chiến trường hiểm trở. Có áp lực phải bảo vệ lãnh thổ hơn nên Mỹ/VNCH dễ lâm vào tình trạng cố thủ rồi thiệt hại nếu bị đưa vào thế bị động. Quốc hội Mỹ chỉ giới hạn chiến tranh trên bộ ở miền Nam Việt Nam. Mỹ có thể tổ chức những cuộc không kích ở Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia, ít nhiều làm suy yếu nhưng không thể tiêu diệt hay hạn chế khu vực hoạt động của "Việt Cộng". Lần duy nhất quân đội Mỹ tấn công sang Campuchia lập tức đã có những thành tựu, tuy nhiên vẫn phải rút về ngay sau đó vì quốc hội không cho phép. Quân đội VNCH, quân đội hoàng gia Lào và Campuchia của chính quyền Lon Nol đã không đủ sức làm điều gì.
Nếu so sánh với chiến tranh Triều Tiên thì việc có biên giới trên bộ dài với Lào và Campuchia là lợi thế cực kỳ lớn mà VNDCCH có được. Có thể dễ dàng dẫn quân thâm nhập miền Nam VN hoặc rút lui nếu ở thế yếu. Ở Triều Tiên, chiến tranh quy ước với giới tuyến rõ ràng, xung quanh là biển, Mỹ được thể hiện sức mạnh của mình với những trận đánh lớn và ngắn ở thế chủ động. Vì vậy mà ở Triều Tiên đã không thể có kết quả như ở Việt Nam.
Tổng kết: Chiến tranh du kích ở chiến trường Đông Dương đã hạn chế tối đa sức mạnh quân sự của Mỹ, đặc biệt là khi Mỹ chỉ được giới hạn quân trên bộ ở miền Nam Việt Nam mà không được phép chủ động ở những chiến trường khác. Chiến tranh vì thế kéo dài, gánh nặng tài chính cũng như nhân mạng cho phía Mỹ mà không có một thành tựu nào rõ ràng. Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tốn kém nhất lịch sử thế giới hiện đại đối với Mỹ.
3. Thể chế
Ở nhiều quốc gia trên thế giới có những đạo luật để gia tăng quyền lực cho chính phủ khi có chiến tranh. Điều này cho thấy phạm vi quyền lực của chính phủ sẽ tỷ lệ thuận với lợi thế trên chiến trường của quốc gia đó.
VNDCCH theo thể chế Cộng Sản với quyền lực to lớn gần như tuyệt đối từ chính quyền, có khả năng kiểm soát kinh tế thông qua nền kinh tế kế hoạch, bao cấp. Nền kinh tế này cho phép nhà nước nắm gần như toàn bộ nguồn lực của đất nước, có thể tập trung cho sản xuất và chiến tranh hiệu quả hơn nhiều so với kinh thị trường. Nó cũng giúp kiểm soát mâu thuẫn giai cấp, tham nhũng, tệ nạn xã hội, thất nghiệp và nhiều vấn đề khác. Người dân được nhà nước chu cấp từ y tế, miếng ăn, đến áo mặc nên khó có thể tồn tại được mà không phục tùng ý chí của lãnh đạo. Truyền thông, báo chí và giáo dục được kiểm soát một cách chặt chẽ. Những ý kiến trái chiều được dập tắt một cách dễ dàng. Những người bị bắt bỏ tù hoặc giam lỏng trong những vụ như Nhân Văn Giai Phẩm hay Xét Lại Chống Đảng đều không cần thông qua tòa án xét xử cho thấy quyền lực đó lớn thế nào. Cho đến khi được thả thì trên lý thuyết họ vẫn trong sạch.
Trái ngược với miền Bắc, VNCH theo tư bản chủ nghĩa, phải đối mặt với nhiều vấn đề về kinh tế cũng như xã hội hơn. Bất bình đẳng giữa các giai cấp, tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, thất nghiệp hay tệ nạn xã hội đều nhiều hơn so với VNDCCH. Tuy không thể xem là một đất nước "tự do, dân chủ", nhưng vẫn tồn tại báo chí tư nhân, xuất bản tư nhân, giáo dục tư nhân với những góc nhìn cởi mở và khách quan chứ không chỉ có ý chí của lãnh đạo. Việc tự do về kinh tế, ít phụ thuộc vào chính quyền cũng là động lực để có những tiếng nói phản đối trong xã hội, đặc biệt là ở tầng lớp sinh viên, tri thức. Chuyện biểu tình để bày tỏ quan điểm xảy ra như cơm bữa ở miền Nam. Tuy điều đó có thể là tốt ở thời bình nhưng lại cực kỳ tai hại ở thời chiến, vì tạo ra một xã hội có nhiều xung đột và bất ổn. Những vấn đề tương tự ở Mỹ, khi báo chí và truyền thông có thể vạch trần những tội ác của quân đội, tình hình chiến trường, thương vong được công khai. Khiến cho người dân dần mất niềm tin vào chính phủ. Một áp lực không nhỏ là một phần nguyên nhân Mỹ buộc phải rút quân.
Xã hội miền Bắc triệu người như một, khiến cho việc thâm nhập và cài cắm gián điệp của miền Nam trở trên khó khăn. Ngược lại thì gián điệp miền Bắc ở phía Nam có khả năng hoạt động tích cực và khó bị phát hiện trong một xã hội đa thành phần, có những người leo cao và được trọng dụng trong chính phủ VNCH.
Tổng kết: Thể chế CS kiểm soát đất nước gần như tuyệt đối về cả vật chất lẫn tinh thần. Tạo nên một xã hội đồng nhất, tập trung nguồn lực một lòng chống giặc. Không có ý kiến trái chiều hay những vấn nạn kinh tế. Trái lại, tư bản ở miền Nam vốn đã không thể ổn định như miền Bắc, trong chiến tranh lại càng trở nên bất ổn và hỗn loạn. Phải đối mặt với những ý kiến trái chiều ngay trong nội bộ.
4. Ý chí chiến đấu và kinh nghiệm chiến trường
Ở thể chế CS thì một người thường ít có tham vọng cá nhân, lại được tuyên truyền tốt hơn về tính chính nghĩa. Thông tin từ chiến trường được kiểm soát kỹ càng hơn. Những câu chuyện, bài hát, phim ảnh cổ vũ chiến đấu hay gia tăng lòng căm thù giặc được phổ biến. Người dân hay quân đội sẽ thấy "đường ra trận mùa này đẹp lắm", những chiến công hiển hách của quân ta và tội ác của quân thù. Nên nhìn chung ý chí chiến đấu của quân đội CS là tốt hơn so với đối thủ. Quân đội và sĩ quan phía Bắc cũng đã có kinh nghiệm chiến đấu với chiến thuật và chiến trường từ nhiều năm trước đó nên vận hành khá dễ dàng.
Phía miền Nam thì không thể kiểm soát được xã hội và quân đội một cách hiệu quả. Việc quân đội Mỹ hiện diện và gây ra những tội ác thì khó có thể thuyết phục được người dân về tính chính nghĩa của cuộc chiến. Liên tục phải đối mặt với những cuộc biểu tình. Những nghệ sĩ phản chiến tuy không được lòng chính quyền nhưng vẫn có thể sống khỏe mà không phụ thuộc. Quân đội VNCH là một đội quân mới thành lập và ít được thực chiến trên chiến trường. Với quân đội Mỹ, việc chiến đấu ở một chiến trường xa xôi và không phải sở trường vì một mục đích mơ hồ khiến họ không thể toàn tâm toàn ý cho cuộc chiến này.
Tổng kết: Việc kiểm soát được cả vật chất lẫn tinh thần người dân, xã hội miền Bắc và quân đội chỉ có một mục tiêu duy nhất là giải phóng miền Nam với ý chí gần như tuyệt đối cộng thêm kinh nghiệm chiến trường dày dặn là một lợi thế không nhỏ dẫn tới chiến thắng. Mỹ/VNCH đã không thể làm được những điều trên.
5. Viện trợ và đồng minh
Tổng kết cả cuộc chiến, thì ta đều thừa nhận rằng những gì mà Mỹ đổ vào VNCH là nhiều hơn so với những gì VNDCCH nhận được từ đồng minh. Cộng thêm sự can thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ tạo nên cho VNCH một tâm thế ỷ lại. Gần như hầu hết thời gian của cuộc chiến, với sức mạnh lớn hơn, Mỹ/VNCH đã không cho phép miền Bắc kiểm soát hiệu quả được một tỉnh thành hay thành phố nào thuộc miền Nam. Tuy nhiên sau khi bị đồng minh bỏ rơi, thì cái kết của VNCH đã được định đoạt vì thiếu đi sức mạnh nội tại, thiếu nguồn lực để vận hành, thiếu ý chí cũng như kinh nghiệm chiến trường.
Trung Quốc và khối XHCN cũng là một tác nhân bảo kê miền Bắc, khiến cho Mỹ đã không dám tấn công trên bộ qua vỹ tuyến 17. Vì cho dù có thể chiến thắng VNDCCH thì rất có thể kịch bản sẽ lặp lại như ở Triều Tiên khi Trung Quốc tham chiến. Điều này khiến Mỹ chỉ tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam. Theo thống kê, có khoảng tổng cộng 320.000 quân TQ hiện diện ở miền Bắc trong cuộc chiến, đóng ở các tỉnh phía trên Hà Nội.
Tổng kết: VNDCCH không đơn độc trong cuộc chiến này, Mỹ quá hào phóng khiến VNCH ỷ lại mà không phát triển sức mạnh nội tại, không thể tự mình đương cự khi đồng minh rút quân.
Kết:
Mỹ gọi Việt Nam là quốc gia thua trận nhiều nhất trên chiến trường nhưng vẫn chiến thắng cả cuộc chiến. Thật vậy, với sức mạnh yếu hơn, thật khó để phe CS có thể có được ưu thế trước Mỹ/VNCH và đồng minh. Phần lớn thời gian cuộc chiến chỉ là cuộc chiến tiêu hao, chứ không phải là lấn đất chiếm cứ điểm. Việc Mỹ xác định chiến trường trên bộ chỉ giới hạn bên trong miền Nam Việt Nam cũng đồng nghĩa rằng kết quả tốt nhất mà Mỹ có thể đạt được là "hòa" với phe CS (như ở Triều Tiên) chứ không thể chiến thắng. Việc còn lại của phe CS là khá đơn giản (quan điểm cá nhân), đó là thử thách sự kiên nhẫn của Mỹ, vì họ không thể thua. Thể chế CS với sự ổn định của nó bằng quyền lực tuyệt đối của chính quyền, đã chiếm ưu thế đối với tư bản của Mỹ/VNCH trong một cuộc chiến kéo dài.
Bonus: Mỹ đã thất bại ở VN và đánh mất VNCH, tuy nhiên mục đích cao hơn của Mỹ có thể xem là vẫn đạt được đó là ngăn chặn làn sóng CS. Sau chiến tranh Việt Nam, thay vì tiếp tục bành trướng thì các nước CS đồng chí anh em lại quay sang đánh nhau, không lâu sau đó thì Liên Xô sụp đổ, kết thúc chiến tranh lạnh với phần thắng chung cuộc thuộc về Mỹ.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
"Kết: