Đây là series bài viết về ba nhạc sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử sản xuất nhạc phim của Hollywood (theo ý kiến cá nhân của mình). Ở phần 1 này, mình xin giới thiệu người đầu tiên (cũng là người mình yêu thích nhất): Hans Zimmer.

1/ "Âm nhạc là người bạn tốt nhất của tôi"
Hans Zimmer, tên đầy đủ là Hans Florian Zimmer. Ông sinh ngày 12/09/1957 tại Frankfurt am Main, Đức. Biến cố mất cha khi lên sáu dường như là cú sốc quá lớn đối với Hans. Từ đó, ông chuyển đến sống tại Königstein-Falkenstein nơi ông học chơi piano tại nhà, nhưng chỉ học được một thời gian ngắn do không thích sự khuôn phép của những bài học chính thống. Ông thích tự học và tập luyện theo cách của riêng mình. Trong một buổi AMA's (Ask Me Anything: Hãy hỏi tôi bất kì điều gì) trên Reddit, Hans chia sẻ:
Tôi có hai tuần cho một khoá học piano bài bản. Tôi đã nhanh chóng bị đuổi, không những một mà tận tám trường. Nhưng tôi không lo lắng về điều đó vì âm nhạc lúc nào cũng hiện hữu trong tâm trí. Tôi bắt đầu tham gia một ban nhạc, rồi sau đó tự học. 
Ông chuyển đến London vào tuổi thiếu niên và theo học trường Hurtwood House. Thời gian ở London giúp ông thành thạo thêm cả keyboard, đàn synthesizer và guitar. 
Trong một buổi phỏng vấn với Mashable vào 02/2013, Hans nói về cha mẹ của mình:
Tôi sinh ra trong một gia đình Đức kiểu mẫu đầy kiêu hãnh và có tôn ti trật tự. Mẹ của tôi rất yêu thích âm nhạc, và về cơ bản là một nhạc công, và cha tôi là một kỹ sư và nhà sáng chế. Nên, tôi bắt đầu tùy chỉnh piano của mình, ta có thể nói như vậy, thứ âm thanh làm mẹ tôi thở hổn hển một cách kinh dị, và cha tôi sẽ nghĩ rằng thật tuyệt khi tôi kèm thêm cưa và những thứ tương tự vào nhạc piano, vì ông nghĩ đó sẽ là một bước tiến trong công nghệ.
Một buổi phỏng vấn khác với đài truyền hình Đức ZDF năm 2006, ông nhận xét về mối lương duyên của mình với âm nhạc:
Cha tôi mất khi tôi còn là một đứa trẻ và tôi đã vượt qua điều đó bằng âm nhạc. Từ đó, âm nhạc trở thành người bạn tốt nhất của tôi.

2/ Theo đuổi đam mê ở London
Hans bắt đầu sự nghiệp với vị trí chơi keyboard và synthesizer trong thập niên 1970, tại ban nhạc Krakatoa. Ông từng làm việc với The Buggles, một ban nhạc new wave, thành lập năm 1977 ở London với Trevor Horn, Geoff Downes, và Bruce Woolley. Tại The Buggles, Hans lập tức gây sốt với ca khúc "Video Killed Radio Star". Sau khi hợp tác với The Buggles, ông bắt đầu làm việc cùng nhóm nhạc người Ý Krisma (một ban nhạc new wave khác) với Maurizio Arcieri và Christina Moser. Tại Krisma, ông đảm nhận vị trí synthesizer đồng thời cũng góp công trong quá trình sản xuất album thứ ba của nhóm có tựa đề "Cathode Mamma". 

Trong khoảng thời gian sống tại London, Hans đã viết những đoạn nhạc quảng cáo cho Air-Edel Associates. Năm 1980, ông hợp tác với Stanley Myers, một nhà soạn nhạc có gia tài sáng tác đồ sộ, là tác giả của rất nhiều bản OST cho hơn sáu mươi bộ phim. Hans và Stanley đồng sáng lập Lillie Yard, một phòng thu đặt tại London. Tại đây, cả hai đã cùng nhau kết hợp âm nhạc giao hưởng truyền thống với các nhạc cụ điện tử. Một vài bộ phim mà Hans và Stanley từng sáng tác là Moonlighting (1982), Success is the Best Revenge (1984), Insignificance (1985), và My Beautiful Launderette (1985). Tác phẩm đầu tiên mà Hans sáng tác một cách độc lập là Terminal Exposure (1987) của đạo diễn Nico Mastorakis. Cũng trong năm 1987, ông giữ vai trò sản xuất âm nhạc cho bộ phim The Last Emperor, tác phẩm đạt chín giải Oscar năm đó (bao gồm cả giải Oscar cho Nhạc phim hay nhất).

Một trong những tác phẩm được nhiều người biết đến trong quãng thời gian ông sống tại London đó là bài hát chủ đề cho chương trình gameshow "Going for Gold" (đồng sáng tác với Sandy McClelland). Trong cuộc phỏng vấn trên BBC, ông thổ lộ:
Going for God là một ca khúc rất vui. Ngoài ra, nhờ nó mà tôi có thể trả tiền thuê nhà trong suốt thời gian ở London.
3/ Chinh phục Hollywood
Một bước ngoặt trong sự nghiệp của Hans đó là khi ông sản xuất nhạc phim cho Rain Man vào năm 1988 . Đạo diễn Rain Man, Barry Levinson đang loay hoay tìm kiếm một người đảm nhận âm nhạc cho bộ phim của mình thì vợ ông đã nghe CD OST bộ phim A World Apart (Hans là người sản xuất âm nhạc cho phim đó). Barry bị ấn tượng bởi các ca khúc của Hans và ngay lập tức liên lạc với ông để hợp tác. Trong quá trình sản xuất, Hans sử dụng synthersizers tổng hợp kết hợp với steel drum. Ông giải thích:
Đây là một bộ phim mang hơi hướng đường phố, và những bộ phim như thế thì người ta thường sử dụng guitar và hệ thống đàn dây. Tôi nghĩ rằng khi nhạc phim được cất lên, nó sẽ không lấn át các tình tiết cũng như nhân vật. Raymond (tên nhân vật) trong phim thực sự không biết mình đang ở đâu, vì anh ấy thấy thế giới quá khác biệt, cảm thấy như mình đang ở một thế giới khác. Thế thì tại sao chúng ta không tạo nên một thứ âm nhạc thật sự khác biệt?

Sau khi gây tiếng vang với Rain Man, ông tiếp tục nhận được lời mời cộng tác với Driving Miss Daisy của Bruce Beresford. Theo một cuộc phỏng vấn với tạp chí Sound On Sound vào năm 2002, Hans nói đùa về Roland MKS–20 (tên một nhạc cụ điện tử, thứ đã giúp ông sản xuất nhạc phim cho Driving Miss Daisy) như sau:
Nhìn nó trông chẳng giống một chiếc piano chút nào, nhưng thứ âm thanh nó phát ra thì tuyệt hảo tương tự như piano.

Năm 1992, Hans đã đi đến Châu Phi để sử dụng các dàn đồng ca và trống của Châu Phi để sản xuất âm nhạc cho The Power of One. Sau bộ phim này, phòng hoạt hình của Walt Disney đã tiếp cận Hans, đề nghị ông sáng tác nhạc phim The Lion King (1994). Hans nói rằng ông muốn đi đến Nam Phi để ghi âm phần nhạc nền, nhưng không thể đến vì ông đã gặp chút rắc rối trong quá trình sản xuất nhạc phim cho The Power of One. Các giám đốc của Disney lo ngại rằng Hans sẽ bị giết nếu ông tới Nam Phi, do đó việc ghi âm được thực hiện trong chuyến đi của Lebo M. Với phần nhạc nền trong phim The Lion King, Hans đã nhận được một giải Oscar, một giải Quả cầu vàng và hai giải Grammy cho nhạc phim hay nhất. Năm 1998, Phần nhạc của The Lion King sau khi chuyển thể sang vở nhạc kịch Broadway đã giành giải thưởng Tony Award cho Âm nhạc hay nhất. Tính đến tháng 4 năm 2012, The Lion King vẫn là vở diễn trên sân khấu Broadway đạt doanh thu cao nhất của mọi thời đại với 853.8 triệu đô la. 

Liên tục những năm sau đó, các bộ phim do ông soạn nhạc như Crimson Tide,  The Thin Red Line,  The Prince of Egypt, The Rock… đều giành được giải Oscar và Grammy danh giá.
Hãy nghe Ridley Scott (đạo diễn của những Blade Runner, Gladiator...) nhận xét về âm nhạc của Hans Zimmer:
Khi thưởng thức các tác phẩm của anh ấy [Hans Zimmer], tôi không bao giờ nhắm mắt lại. Âm nhạc của anh ấy làm tôi có cảm giác như đang chiêm ngưỡng những hình ảnh tuyệt vời. Tôi biết tôi có thể dễ dàng trao đổi với anh ấy, bởi vì anh ấy có thể trả lời bằng hình ảnh, hình ảnh trong âm nhạc. [ngụ ý của Ridley đó là việc dù công việc của ông và Hans khác nhau, khi một bên làm về hình ảnh, một bên làm về âm thanh, nhưng Hans tài nằng đến nỗi có thể biến âm thanh trở thành những khung ảnh sống động, vì vậy đó là lí do tại sao mà Ridley khâm phục Hans đến như vậy]
Trong thập niên 2000, Zimmer đã sáng tác cho những bộ phim bom tấn của Hollywood bao gồm ba phim Ridley Scott bao gồm: Gladiator (2000); Black Hawk Down, Pearl Habor và Hannibal (2001). Sau đó là những The Last Samurai (2003); Madagascar (2005); The Holiday và The Da Vinci Code (2006); The Simpsons (2007); Kungfu Panda (2008); Angels & Demons, Sherlock Holmes và The Burning Plain (2009). Ngoài ra, ông còn làm nhạc game cho Call of Duty: Modern Warfare 2, và Crysis 2. 
Từ năm 2010 đến nay, Hans tiếp tục đứng đằng sau những bom tấn như Inception và Megamind (2010); Rango (2011), 4 phần đầu Pirates of the Caribbean (2003-2011); trilogy Batman của Christopher Nolan (2005-2012), The Amazing Spider-Man 2 và Interstellar (2014); Batman v Superman: Dawn of Justice (2016) và mới đây nhất là Dunkirk (2017).
Vào 12/2010, Hans Zimmer đã được vinh danh trên Đại lộ Danh vọng nơi bên cạnh những ngôi sao hàng đầu Hollywood. Năm 2012 Cùng với Pharrell Williams của The Neptunes, Hans Zimmer đã tạo nên một bức tranh âm nhạc đậm chất nghệ thuật tuyệt vời khi được vinh dự soạn nhạc và làm giám đốc âm nhạc cho lễ trao giải Oscar 84 tại Nhà hát Kodak, Los Angeles, Mỹ.  Ông cũng được The Daily Telegraph xếp vào Top 100 các thiên tài sống.

Ngoài ra, ông còn là trưởng bộ phận nhạc phim tại các hãng phim DreamWorks, cũng như cộng tác cùng nhiều nhà soạn nhạc lừng danh khác tại hãng Remote Control Productions do ông sáng lập.
4/ Nghệ sĩ thiên tài với niềm đam mê âm nhạc bất tận.
Có một sự nghiệp đồ sộ với hàng chục giải thưởng danh giá lớn nhỏ, song người hâm mộ thường nhớ về Hans Zimmer như là “cha đẻ” của những bản nhạc phim bất hủ đã đi sâu vào lòng người.
Trong lần ghi âm của The Last Samurai vào đầu năm 2003, Hans đã được nhà sản xuất Jerry Bruckheimer tiếp cận, người mà trước đây ông từng cộng tác với các tác phẩm Crimson Tide, Days of Thunder, The Rock và Pearl Harbor. Jerry vốn dĩ đã hoàn thành bộ phim Pirates of the Caribbean: The Curse of the Black Pearl nhưng không hài lòng với âm nhạc do Alan Silvestri sáng tác và muốn có sự thay thế. Jerry liên lạc với Hans, nhằm thuyết phục ông đảm nhận vị trí của Alan.  Tuy nhiên Hans đã từ chối vì những cam kết của ông với The Last Samurai và nhiệm vụ sáng tác, giám sát âm nhạc cho Pirates of the Caribbean: The Curse of the Black Pearl đã được trao cho Klaus Badelt, một trong những đồng nghiệp của Zimmer tại Media Ventures . 
Hans Zimmer cũng nổi tiếng bởi sự cầu tiến, học hỏi không ngừng những cái mới, tiếp cận âm nhạc của nhiều quốc gia khắp thế giới từ rừng rậm Nam Phi đến Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Âu để có những sản phẩm ưng ý nhất. Song, lúc nào Hans cũng khiêm tốn cho rằng: "Nếu bạn có một ý tưởng và có những người tài năng xung quanh, bạn có thể biến nó thành sự thật."
Khi thực hiện The Last Samurai, Hans cảm thấy rằng kiến thức về âm nhạc Nhật Bản của mình rất hạn chế. Vì vậy, anh ấy bắt đầu nghiên cứu sâu rộng về âm nhạc Nhật, nhưng càng nghiên cứu, anh càng cảm thấy mình ít biết. Cuối cùng, Hans đã viết những gì mình nghiên cứu được, cho những nghệ sĩ Nhật để lấy ý kiến phản hồi, đồng thời cải thiện những kiến thức còn hạn chế. Và bạn biết gì không? Các nghệ sĩ Nhật bản đã rất sốc, vì những gì anh ấy biết về âm nhạc Nhật Bản, là quá nhiều.
-Blake Neely, cộng sự của Hans Zimmer-

Đối với nhạc nền của The Dark Knight, Hans quyết định viết cho nhân vật Joker bằng một nốt nhạc cello do đồng nghiệp Martin Tillman làm từ lâu. Hans đã nhận xét: "Tôi muốn viết ca khúc cho một nhân vật phản diện bị nhiều người ghét". Đề cử của The Dark Knight đã bị loại khỏi danh sách đề cử Oscar cho Best Original Score do có quá nhiều nhà soạn nhạc được liệt kê. Hans đã đấu tranh cho nghịch lí này và ông đã thành công trong việc đảo ngược quyết định vào 12/2008. Ông lập luận rằng quá trình tạo ra một bản nhạc phim là công sức của rất nhiều người và không có lí do gì để gạt tên họ trong danh sách đề cử cả. Hans giải thích điều này trong một cuộc phỏng vấn với Soundtrack vào năm 2006:
Tất cả mọi người nên được vinh danh, dù họ đảm nhận bất cứ công việc hay nhiệm vụ gì. Bạn là nhà soạn nhạc, bạn là nhà sản xuất, bạn là nhạc sĩ, điều đó không quan trọng, quan trọng là bạn có đóng góp trong một tác phẩm hoàn chỉnh. Trong Gladiator: tôi ghi tên Lisa Gerrard là người đồng sáng tác, bởi vì mặc dù cô ấy không phải là người đảm nhận phần lớn công việc, nhưng sự hiện diện và đóng góp của cô ấy là rất quan trọng.
Hans được xem là “cha đẻ” của phương pháp tích hợp dàn nhạc truyền thống với chất hiện đại của dụng cụ điện tử synthesizer. Nhạc phim của Hans luôn kết hợp khéo léo chất liệu cổ điển với kĩ thuật thu âm hiện đại tạo ra những mảng âm thanh vừa mới lạ, vừa “kỳ quặc”, khai sinh ra một dòng nhạc “world music” phối hợp nhuần nhuyễn những nhạc cụ và âm nhạc địa phương, âm hưởng của các dân tộc trên thế giới.
5/ “Một bản nhạc phim hay nên có quan điểm của riêng nó!” 
Suốt 3 thập kỷ qua, Hans Zimmer đã làm nhạc cho hơn 100 bộ phim với 9 lần đề cử và một giải Oscar, 4 giải Grammy, 2 giải Quả Cầu Vàng và rất nhiều bộ phim do ông viết nhạc nền đã được vô số giải thưởng cao quý. Ông có một gia đình hạnh phúc cùng vợ và bốn người con và khán giả chỉ biết về ông qua những lao động miệt mài và thầm lặng sau khung ảnh. Song, lúc nào Hans cũng khiêm tốn cho rằng: 
Nếu bạn có một ý tưởng và có những người tài năng xung quanh, bạn có thể biến nó thành sự thật. Và quan trọng hơn, một bản nhạc phim hay nên có quan điểm của riêng nó!
Và những người hâm mộ hoàn toàn có quyền kỳ vọng những “siêu phẩm” tiếp theo của một trong những nhà sản xuất nhạc phim tài năng và xuất sắc nhất mọi thời đại.