BÓC TRẦN VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG TRONG "THẬP KỶ MẤT MÁT" Ở NHẬT BẢN: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Bài viết phân tích sai lầm của BoJ khi nới tín dụng quá mức qua “hướng dẫn cửa sổ”, khiến vốn chảy vào bất động sản, đẩy giá đất/GDP lên 5,2 rồi sụp đổ năm 1989. Cảnh báo Việt Nam có dấu hiệu tương tự với tín dụng cao và dòng vốn đổ mạnh vào nhà đất.
Sự gia tăng mạnh mẽ của tín dụng ngân hàng trong 2 năm trở lại đây đi kèm với sự tăng giá mạnh mẽ của bất động sản đang gây nên những lo ngại về bong bóng tài sản và nguy cơ suy thoái kinh tế.

Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đoàn Thái Sơn thông tin, tính đến cuối tháng 8/2025, dư nợ tín dụng đạt 17,14 triệu tỷ đồng, tương đương mức tăng 11,08% so với cuối năm 2024. Nếu so với cùng kỳ năm ngoái, tín dụng đã tăng khoảng 20,19%. Đây là mức tăng trưởng tín dụng cao nhất trong nhiều năm qua và cao hơn so với mức trung bình nhiều năm qua (14,5%).
Hay Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đã bày tỏ lo ngại khi tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng so với GDP đã đạt 134% sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống và nền kinh tế. Nhất là khi nguồn vốn tín dụng này dường như đang không ngừng chảy vào bất động sản.Theo số liệu Ngân hàng Nhà nước, đến cuối tháng 8/2025, dư nợ lĩnh vực bất động sản đã vượt 4,08 triệu tỷ đồng, tăng gần 19% so với cuối năm 2024, chiếm gần 1/4 tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
Cùng với đó là giá bất động sản ở các đô thị lớn liên tục thiết lập các mức đỉnh mới.Tại Hà Nội, từ năm 2023 đến nay, giá căn hộ đã tăng khoảng 30–40%, đưa mặt bằng giá phổ biến lên khoảng 70–90 triệu đồng/m² ở nhiều dự án. Phần lớn sản phẩm mở bán có giá trên 4 tỷ đồng, căn hộ dưới 2 tỷ đồng gần như biến mất khỏi thị trường. Thậm chí nhiều căn hộ có giá tăng gấp 3 lần chỉ trong vòng gần 3 năm trở lại đây. Một số dự án chung cư đã bàn giao cũng ghi nhận mức tăng phổ biến hơn 2 lần chỉ trong vòng từ năm 2023 đến nay.
Công cụ và chính sách tín dụng đã góp phần tạo nên thập kỷ mất mát ở Nhật Bản như thế nào ?
Câu chuyện về Đất nước mặt trời mọc từ điều kỳ diệu tăng trưởng kinh tế sau khi vươn mình từ đống tro tàn chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến thập kỷ mất mát là bài học mà các nhà nghiên cứu kinh tế hay các nhà hoạch định chính sách luôn ghi nhớ. Hãy tìm hiểu về những sai lầm trong chính sách tín dụng của ngân hàng trung ương Nhật Bản đã tạo ra lạm phát tài sản và suy thoái kinh tế như thế nào để từ đó rút ra bài học và cảnh tỉnh cho những điều đang diễn ra ở quốc gia của chúng ta.
Bối cảnh kinh tế chính trị thế giới đầu thập niên 1980 đã tạo những điều kiện thuận lợi cho Nhật Bản tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Môi trường chính trị hòa bình giúp Nhật Bản được hưởng các điều kiện kinh tế ổn định cùng với đó nền kinh tế định hướng xuất khẩu của Nhật Bản cũng được hưởng lợi từ chính sách tiền tệ nới lỏng của chính phú Mỹ vốn thúc đẩy chi tiêu tiêu dùng .Trong khi đó Trung Quốc lúc này chưa đóng vai trò lớn trong nền kinh tế toàn cầu hầu hết thị phần xuất khẩu đồ điện tử và hàng hóa công nghiệp ở Mỹ và trên thế giới vẫn nằm trong tay Nhật Bản.
Các ngành công nghiệp chế biến chế tạo của Nhật Bản phát triển mạnh mẽ nổi tiếng với các sản phẩm chất lượng cao, bền bỉ và giá thành hợp lý so với các sản phẩm của Mỹ hay Châu Âu. Các sản phẩm của Nhật đã “càn quét thị trường toàn cầu” trong giai đoạn này.
Hiệu suất tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của Nhật Bản từ năm 1960 đến 1980 từ mức 47.42 tỷ USD đã tăng lên 1.13 ngàn tỷ USD. Chỉ trong 2 thập kỷ nền kinh tế Nhật Bản tăng 23.83 lần. Tăng trưởng GDP ổn định và lành mạnh vẫn duy trì ở mức cao so với quy mô nền kinh tế trung bình 4% trong kể từ năm 1980 đến năm 1985, với GDP danh nghĩa tăng từ 240 nghìn tỷ JPY (1980) lên 330 nghìn tỷ JPY (1985) . Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Nhiều chuyên gia kinh tế thế giới ở thời điểm đó đã nhận định rằng Nhật Bản sẽ sớm vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất toàn cầu.
Bước ngoặt định mệnh của Nhật Bản : Hiệp định Plaza năm 1985
Hiệp định Plaza, được ký kết vào tháng 9 năm 1985, là một thỏa thuận giữa G5 (bao gồm Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Đức, Pháp và Nhật Bản) về can thiệp phối hợp vào thị trường ngoại hối. Hiệp định Plaza làm mất giá đồng Đô la Mỹ (USD) một cách nhanh chóng. Qua đó nhằm làm giảm gánh nặng cho nền kinh tế Hoa Kỳ vốn đang thâm hụt tài khoản vãng lai nghiêm trọng với các khoản nợ nước ngoài khổng lồ và đồng thời cũng ngăn chặn tình trạng hàng hóa Nhật Bản đang xâm chiếm thị trường toàn cầu.Tỷ giá hối đoái danh nghĩa trước đó của Nhật Bản dao động quanh mức 240 JPY/USD. Sau thỏa thuận, đồng yên đã tăng giá mạnh, đạt mức 120 JPY/USD chỉ trong vòng 3 năm.
Sự tăng giá nhanh này đã tạo ra lo ngại về một cuộc suy thoái kinh tế. Lý do là Hoa Kỳ là khách hàng lớn nhất của ngành sản xuất Nhật Bản, và đồng Yên mạnh sẽ làm tăng giá quốc tế của các sản phẩm sản xuất Nhật Bản, gây bất lợi cho xuất khẩu gây ảnh hưởng đến nền kinh tế phụ thuộc lớn vào xuất khẩu của Nhật Bản. Do đó ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã bắt đầu 1 chính sách tiền tệ nới lỏng bao gồm duy trì lãi suất kéo dài và quan trọng nhất là hạn mức tăng trưởng tín dụng cao với mục tiêu chuyển đổi nền kinh tế Nhật Bản từ tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang dựa vào nhu cầu trong nước.
“Window Guidance” tác nhân chính gây ra bong bóng tài sản
“Window Guidance” là các biện pháp kiểm soát tín dụng trực tiếp dưới dạng hạn ngạch phân bổ tín dụng của ngân hàng trung ương Nhật Bản nhằm giới hạn cạnh tranh và kiểm soát toàn bộ hệ thống tài chính.Cơ chế này cho phép BoJ phân bổ nguồn lực và kiểm soát hoạt động kinh tế bằng cách quyết định tổng mức tăng trưởng cho vay mà hệ thống ngân hàng cả nước nên đạt được trong kỳ tiếp theo, thường là hàng quý và hạn mức tăng trưởng cho vay chi tiết đối với mỗi ngân hàng.
Các lãnh đạo ngân hàng sẽ đến trực tiếp ngân hàng trung ương Nhật và tại quầy giao dịch ( teller window) họ sẽ nhận được hạn mức cho vay của ngân hàng mình. Đó chính là nguồn gốc của các tên “Window Guidance”.
Mặc dù Window Guidance (WG), hay madoguchi shidō, là một công cụ kiểm soát tín dụng phi pháp lý nhưng có mức độ tuân thủ cực kỳ cao do các ngân hàng lo sợ bị đánh giá yếu kém dẫn đến bị hạn chế mức tăng trưởng tín dụng trong tương lai. Nếu họ không dùng hết hạn ngạch cho vay trong hơn một qúy hay cho vay vượt quá hạn mức tín dụng được cấp, hạn ngạch tương lai của họ sẽ bị giảm so với đối thủ cạnh tranh từ đó họ sẽ mất thị phần vào tay đối thủ. Các ngân hàng cũng có thể bị cắt giảm hạn mức tái chiết khấu từ đó làm giảm khả năng tiếp cận nguồn vốn giá rẻ và ổn định đến từ ngân hàng nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến biên lợi nhuận của họ.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (Boj) đã sử dụng Window Guidance( WG) để kích thích nền kinh tế nhưng đồng thời điều này đã tạo ra bong bóng tài sản. Khoảng từ năm 1986 trở đi, Boj đã đặt 1 hạn mức tăng trưởng tín dụng rất cao cho hệ thống ngân hàng . Tốc độ tăng trưởng cho vay của các ngân hàng thương mại lớn (city banks) đạt trung bình khoảng 15% vào cuối những năm 1980, và tổng tăng trưởng cho vay duy trì trên 12% trong hầu hết thời gian. Trong khi đó, khả năng phục vụ các khoản vay này của nền kinh tế—tức thu nhập quốc dân—chỉ tăng trưởng bằng khoảng một nửa. Điều này hiển nhiên tạo ra lượng tín dụng dư thừa được sử dụng không hiệu quả : tiền được tạo ra bởi hệ thống ngân hàng không được sử dụng để phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh mà chảy vào các hoạt động đầu cơ tài sản.
Các ngân hàng Nhật Bản đẩy mạnh cho vay lĩnh vực bất động sản
Chính sách kiểm soát lãi suất (TIRAL) đã được áp dụng hiệu quả từ năm 1947 cho đến năm 1992. Đây là 1 biện pháp chủ yếu được áp dụng để kiểm soát lãi suất tiền gửi nhưng cũng đi kèm với hạn chế lãi suất cho vay nhằm đảm bảo các khoản tín dụng dài hạn vẫn sẽ có lợi nhuận. Điều này cũng giúp các ngân hàng đảm bảo biên lợi nhuận của mình và có được nguồn vốn cho vay ổn định và ở mức thấp. Tuy nhiên nó cũng làm hạn chế sự cạnh tranh của các ngân hàng, họ không thể cạnh tranh bằng lãi suất tiền gửi. Do đó các ngân hàng tập trung vào tăng trưởng quy mô cho vay mình để tăng lợi nhuận.
Chính sách “hệ thống đoàn tàu” ( Convoy system) của ngân hàng trung ương Nhật bản trong đó đảm bảo không để cho bất cứ ngân hàng nào phá sản. Chính phủ ngầm chấp nhận chịu rủi ro tín dụng (Credit Risk) thay cho các ngân hàng. Bất cứ tổn thất lớn nào mà ngân hàng gánh chịu đều sẽ được Chính phủ hoặc Ngân hàng Trung ương (BOJ) can thiệp và gánh vác, thường là thông qua các biện pháp cứu trợ bí mật.
Bên cạnh đó chính sách phân bổ hạn mức và lãi suất tái chiết khấu cho các ngân hàng dựa trên quy mô của ngân hàng. Càng làm các ngân hàng có động lực để tập trung vào tăng trưởng quy mô cho vay của mình.Việc tăng quy mô cho phép họ tiếp cận tỷ lệ trợ cấp lớn hơn, điều này mang lại lợi ích hơn so với việc tập trung vào hiệu suất cho vay hoặc tối đa hóa biên lợi nhuận trên từng khoản vay.
Các chính sách này cùng với áp lực từ hạn mức cho vay duy trì ở mức cao liên tục từ năm 1986 đến 1989 đã thúc đẩy các ngân hàng chấp nhận rủi ro cao và tập trung vào tăng trưởng quy mô cho vay bằng cách chuyển cơ cấu tín dụng sang cho vay ồ ạt bất động sản. Bất động sản trở thành lĩnh vực cho vay chủ đạo vì nó là lĩnh vực duy nhất vừa có khả năng hấp thụ được lượng vốn dư thừa khổng lồ và vừa mang lại cảm giác an toàn nhờ niềm tin rằng tài sản thế chấp (đất đai) là không thể mất giá.
Trong giai đoạn này các ngân hàng Nhật Bản bỏ qua mục đích sử dụng khoản vay của khách hàng mà chỉ quan tâm đến tài sản thế chấp là bất động sản. Các ngân hàng cũng ưa chuộng phương pháp đánh giá rủi ro thế chấp bằng gía trị tài sản thay vì phân tích dòng tiền ( vốn phổ biến ở Mỹ). Việc giá đất trong giai đoạn này liên tục tăng mạnh cùng với việc hệ thống ngân hàng của Nhật Bản vốn phụ thuộc nặng nề vào tài sản thế chấp là bất động sản đã dẫn đến các khoản vay nhanh chóng được duyệt mà hầu như không quan tâm đến việc tiền sẽ được sử dụng để làm gì. Điều này dẫn đến lượng lớn tín dụng chảy vào các hoạt động đầu cơ bất động sản và cổ phiếu thay vì hoạt động sản xuất và kinh doanh.
Trước các sức ép lớn đến từ hạn mức tín dụng cao và việc phải tăng trưởng quy mô cho vay, thái độ "tiền dễ dãi" của các ngân hàng đã đạt đến mức độ phi lý.Trong giai đoạn này không thiếu các câu chuyện lan truyền về nỗ lực nài nỉ khách hàng vay tiền của các nhân viên ngân hàng. Một giai thoại điển hình là trường hợp một giám đốc chi nhánh ngân hàng lớn đã chủ động tìm đến chủ sở hữu một công ty bất động sản nhỏ chưa từng có giao dịch tại ngân hàng của ông ấy trước đó. Lời đề nghị của giám đốc này gây sốc: "Làm ơn, chỉ cần vay tiền, và thậm chí đừng nghĩ đến lãi suất và lịch thanh toán." Đây là một lời mời gọi đầu cơ không thể rõ ràng hơn.
Khi người chủ doanh nghiệp từ chối vì không có nhu cầu, giám đốc chi nhánh liền thuyết phục bằng cách nói về một khoản cho vay thế chấp bằng bất động sản mà trước đây ngân hàng ông ta đã thực hiện. Đó là một lô đất ở khu mua sắm Tokyo trị giá thực tế chỉ 600 triệu yên. Theo quy định chính thức của Bộ Tài chính, để đảm bảo biên độ an toàn, ngân hàng chỉ được phép cho vay tối đa 420 triệu yên (70% giá trị thị trường).
Tuy nhiên, thay vì tuân thủ quy tắc, ngân hàng đã dàn xếp một hợp đồng bán hàng giả mạo với giá 1.1 tỷ yên cho lô đất này. Dựa trên giá trị thổi phồng đó, ngân hàng đã hợp pháp hóa việc cho vay tới hơn 770 triệu yên. Bằng cách này, ngân hàng duy trì được vỏ bọc tỷ lệ cho vay/thế chấp 70% trên giấy tờ, nhưng trên thực tế, khoản vay 770 triệu yên đã vượt xa 100% so với giá trị thực của tài sản thế chấp (600 triệu yên).
Câu chuyện này cũng đã nói lên vấn đề nâng khống giá trị tài sản thế chấp của các ngân hàng Nhật Bản. Trong nỗ lực nhằm tăng trưởng các khoản vay, ngân hàng đã nằm sai lệch việc định giá các tài sản thế chấp và hứa hẹn về lợi nhuận vốn cho các khách hàng của mình. Thay vì tuân thủ giá đất chính thức do chính phủ công bố hay mức giá thị trường của tài sản tương tự đang được giao bán hay đã bán, các cán bộ tín dụng định giá tài sản thế chấp bằng cách lấy mức giá dự đoán giá đất của năm tiếp theo, thậm chí là hai năm sau, bằng cách đơn giản là lặp lại mức tăng giá phi mã của năm trước đó. Điều này khiến cho khách hàng được vay một khoản tương đương thậm chí vượt quá giá trị của tài sản thế chấp và làm họ cảm thấy bản thân đang rất giàu có cùng với tâm lý sợ hãi việc bỏ lỡ cơ hội kiếm lời "chắc chắn” từ đầu cơ bất động sản xuất hiện, từ đó kích thích thêm đầu cơ và thúc đẩy nhu cầu vay mượn.
Kết quả là, nền kinh tế Nhật Bản đạt được sự tăng trưởng kinh tế bùng nổ và sự thịnh vượng trong ngắn hạn.
Đất nước này lao vào một trong những cơn chi tiêu vốn lớn nhất trong lịch sử thời bình. Tổng đầu tư từ năm 1985 đến 1989 lên đến 303 nghìn tỷ Yên, tương đương với việc Nhật Bản mỗi năm đầu tư một khoản tiền bằng cả GDP của nước Pháp.
Dấu hiệu của sự giàu có tràn trề không chỉ dừng lại ở các nhà máy mà còn len lỏi vào đời sống doanh nghiệp. Chi phí công ty tăng vọt, các nhà quản lý chiêu đãi nhau bằng những bữa tiệc xa hoa, và việc chi tiêu mạnh tay cho thẻ thành viên câu lạc bộ golf doanh nghiệp trở thành một thước đo tài chính quan trọng, song hành cùng chỉ số Nikkei, đều chỉ hướng về một phía: tăng trưởng không ngừng.
Tháng 3 năm 1990, tỷ lệ thất nghiệp chạm đáy lịch sử chỉ còn 2%. Thị trường lao động thắt chặt kéo theo thu nhập cá nhân tăng và chi tiêu tiêu dùng mạnh mẽ. Kết quả, GDP danh nghĩa của Nhật Bản duy trì mức tăng trưởng ấn tượng 5.5% trong giai đoạn 1986–1990, với các nhà máy hoạt động hết công suất.
Bất chấp tốc độ tăng trưởng cao, thị trường lao động thắt chặt và chi tiêu khổng lồ, lạm phát vẫn ở mức thấp đáng ngạc nhiên khi duy trì ổn định, tăng trung bình 1.3% trong nửa sau những năm 1980 (1985-1990).
Nhưng đi kèm với sự thịnh vượng đó là bong bóng tài sản phình to. Từ giữa những năm 1980 trở đi, giá bất động sản và giá cổ phiếu tăng vọt một cách khủng khiếp. Từ tháng 1 năm 1985 đến tháng 12 năm 1989, cổ phiếu tăng 240 phần trăm và gía bất động sản tăng 245 phần trăm.
Bên canh đó tỷ lệ giá trị bất động sản trên GDP của Nhật Bản cũng cao một cách đáng kinh ngạc. Thông thường, ở các nền kinh tế phát triển, tổng giá trị đất đai của quốc gia (tính theo giá thị trường) sẽ xấp xỉ tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) của nước đó trong một năm—tỷ lệ khoảng 1:1. Tỷ lệ này phản ánh sự cân bằng giữa giá trị tài sản với sức sản xuất thực tế của nền kinh tế. Năm 1989, tỷ lệ này ở Mỹ chỉ là 0.7.Thế nhưng ở Nhật Bản, con số này đã nhảy vọt lên 5.2. Điều đó có nghĩa là: Giá trị tất cả đất đai của Nhật Bản đã cao gấp hơn 5 lần toàn bộ sản lượng kinh tế của nước này trong một năm.Giá trị bất động sản khu vực bao quanh Hoàng Cung ở trung tâm Tokyo được định giá ngang bằng với tất cả đất đai của toàn bộ bang California (Mỹ) cộng lại. Mặc dù diện tích Nhật Bản chỉ bằng 1/26 của Hoa Kỳ, nhưng tổng giá trị đất đai của nước này lại cao gấp bốn lần đất đai của Mỹ.Chỉ riêng một quận trung tâm của Tokyo, quận Chiyoda, có giá trị thị trường vượt qua tổng giá trị của toàn bộ đất đai Canada.
Bất chấp giá trị bất động sản ở mức không tưởng ấy thì tỷ lệ diện tích văn phòng được sử dụng chỉ là 40% ở thời điểm đỉnh cao. Đất đai lúc này thực chất vẫn đang được sử dụng kém hiệu quả, không phải là quá khan hiếm. Đi kèm với đó là hiệu suất sử dụng của bất động sản ở Nhật cũng không tương xứng với giá trị tài sản khổng lồ của nó.Giá đất khu dân cư ở Tokyo cao gấp 100 lần New York, nhưng tiền thuê nhà chỉ cao gấp 4 lần.

Bong bóng xì hơi, nền kinh tế Nhật Bản bước vào ngưỡng cửa của thập kỷ mất mát
Mặc dù lo lắng trước tình trạng giá bất động sản tăng trưởng nóng nhưng chính phủ Nhật Bản không có những hành động can thiệp quyết liệt ngay từ đầu. Bởi họ đánh giá sai lầm về nguy cơ đổ vỡ từ mô hình cho vay thế chấp bằng bất động sản. Lạm phát tiêu dùng duy trì ở mức thấp chỉ tăng trung bình 1.3% trong 5 năm cũng khiến Boj không có động lực để quyết liệt can thiệp.
Phải đến khi Mieno Yasushi, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) từ tháng 12 năm 1989 đến năm 1994 nhậm chức vào năm 1989 và nhận thấy rằng các chính sách tiền tệ của người tiền nhiệm đã quá lỏng lẻo dẫn đến bong bóng tài sản phình to. Ông than phiền rằng Nhật Bản đang trở thành một quốc gia của "người có" và "người không có", khi các chủ đất trở nên cực kỳ giàu có bằng chi phí của những người làm công ăn lương bình thường.Vào khoảng tháng 6 năm 1989, Ngân hàng trung ương Nhật Bản ( Boj) bắt đầu thắt chặt hạn mức tín dụng để hạn chế bong bóng tài sản. Tổng mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng năm 1989 là 10.49% so với mức trung bình 12% được duy trì trong giai đoạn nới lỏng tín dụng và đến năm 1991 con số này chỉ còn 5.11%. Đồng thời mức lãi suất chiết khấu cho vay cũng được nâng từ 2.5% /năm (mức thấp kỷ lục ) lên 6% trong giai đoạn từ giữa năm 1989 đến tháng 7 năm 1991.
Không còn lượng tiền mới dồi dào đổ vào thị trường , bong bóng tài sản được sinh ra từ một chính sách tín dụng rủi ro nhanh chóng sụp đổ như những quân cờ domino. Nửa năm sau đó, giá cổ phiếu đạt đỉnh.Chỉ riêng năm 1990, thị trường chứng khoán được đo bằng chỉ số Nikkei 225, đã giảm mạnh 32 phần trăm. Thị trường bất động sản cũng nhanh chóng sụt giảm theo đó. Giá bất động sản đã giảm một nửa trong khoảng thời gian từ giữa tháng 1 năm 1990 đến tháng 12 năm 1994. Giá tài sản giảm đã phơi bày rủi ro đầu cơ nặng nề của mô hình cho vay và đầu cơ bất động sản. Người đi vay cần giá bất động sản tăng để hoàn trả các khoản lãi vay chứ chưa nói đến nợ gốc phải trả. Do đó khi áp lực nợ tăng cao họ buộc phải bán tài sản để trả nợ. Khi ngày càng nhiều nhà đầu cơ bán ra giá tài sản ngày càng giảm đi. Nhiều kế hoạch vay nợ mang tính đầu cơ bị tan rã và nhanh chóng đẩy những người đầu cơ đến bờ vực phá sản. Điều đó tạo ra các khoản nợ xấu lớn cho các ngân hàng. Khoảng 100 nghìn tỷ Yên giá trị các khoản vay—tương đương một phần năm GDP của Nhật Bản—đã biến thành nợ xấu trong thập niên 1990. Do đó các ngân hàng trở nên tê liệt và giảm cho vay, tổng lượng tín dụng trong nền kinh tế bị thu hẹp. Điều này ảnh hưởng nặng nề đến các công ty vừa và nhỏ , vốn phụ thuộc hoàn toàn vào vốn vay ngân hàng. Sự thiếu hụt vốn này làm ngày càng nhiều các doanh nghiệp nhỏ và vừa ( SME) phá sản đưa số vụ phá sản trong giai đoạn này lên cao kỷ lục. Các công ty vừa và nhỏ (SME), vốn là nhà tuyển dụng số một của Nhật Bản, chiếm 70% tổng số việc làm. Do đó, trong thời kỳ suy thoái, các công ty may mắn còn trụ vững nhanh chóng cắt giảm tiền thưởng, lương và sa thải nhân viên. Ước tính Hơn năm triệu người Nhật Bản có thể đã mất việc làm và không tìm được việc làm ở nơi khác. Con số này tương đương với toàn bộ dân số Đan Mạch vào thời điểm đó. Nền kinh tế Nhật Bản trượt vào cuộc suy thoái sâu nhất và dài nhất kể từ thập niên 1930 mà ngày nay thường được gọi là thập kỷ mất mát.

Mô hình phân tích Kiyotaki-Moore mở rộng giải thích sự sụp đổ bong bóng tài sản nhờ chính sách tín dụng của Nhật Bản.
Mô hình Kiyotaki và Moore (KM) năm 1997 là công cụ lý thuyết mạnh mẽ giúp chúng ta hiểu tại sao tín dụng ngân hàng lại có sức mạnh thúc đẩy giá tài sản đến mức phi lý, đặc biệt là trong bối cảnh bong bóng bất động sản Nhật Bản những năm 1980.Cốt lõi của vấn đề là sự tồn tại của "chu kỳ tín dụng" – một vòng lặp khuếch đại lẫn nhau giữa việc cho vay và giá tài sản.
Các khoản vay của Doanh nghiệp và các cá nhân dựa trên hạn mức tín dụng mà tài sản thế chấp mang lại mà ở Nhật Bản đa số chính là bất động sản. Bởi các ngân hàng Nhật Bản như đã nói ở trên đã nới lỏng các chính sách cho vay của mình và chỉ quan tâm đến yếu tố giá trị tài sản thế chấp hay giá của bất động sản được thế chấp ở ngân hàng mà bỏ qua vấn đề dòng tiền hay mục đích sử dụng khoản vay của khách hàng nên hạn mức tín dụng của người đi vay không cố định mà được quyết định bằng giá trị thị trường của bất động sản thế chấp. Do vậy khi giá bất động sản tăng lên đồng nghĩa giá trị tài sản của người đi vay tăng lên và họ sẽ được vay nhiều tiền hơn từ ngân hàng để mua thêm bất động sản. Quá trình này khiến nhu cầu về đất đai và giá bất động sản tiếp tục tăng và 1 vòng lặp tự mở rộng không ngừng được hình thành. Và khi hạn mức tín dụng mấu chốt quan trọng nhất của vòng lặp này bị siết chặt vòng quay ấy nhanh chóng sụp đổ.
Hiện nay ở Việt Nam chúng ta cũng đang chứng kiến nhiều điều tương tự với Nhật Bản trước giai đoạn khủng hoảng như giá bất động sản tăng cao phi mã ,từ 2023 đến nay giá bất động sản đã tăng gấp đôi ở các đô thị lớn như Hà Nội , dư nợ tín dụng tăng cao và phần lớn chảy vào bất động sản.
Bài học từ Nhật Bản cho chúng ta thấy rằng lạm phát ở mức thấp ở Nhật trung bình trong giai đoạn trước khủng hoảng là 1.3 % và ở Việt Nam là 2.71% trong năm 2024 trong khi giá trị tài sản tăng nhanh không có nghĩa là mọi thứ đang ổn. Chính phủ Nhật đã chần chừ và không quyết liệt trước giá bất động sản và cổ phiếu liên tục lập đỉnh và để rồi khi họ cố gắng can thiệp mọi thứ đã quá muộn.
Tăng trưởng tín dụng của Nhật Bản đã tạo ra thời kỳ thịnh vượng giả tạo và ngắn ngủi trước khi một cuộc suy thoái diễn ra, chúng ta cần định hướng một cách chi tiết định lượng tín dụng vào từng ngành công nghiệp cụ thể tránh cho tín dụng chảy ồ ạt phục vụ nhu cầu đầu cơ bất động sản.
Và cuối cùng giá bất động sản không tăng mãi mãi. Niềm tin cố hữu rằng "giá đất không bao giờ giảm" đã khiến các ngân hàng Nhật Bản đều đồng thuận coi bất động sản là tài sản thế chấp an toàn nhất. Nhìn riêng lẻ, mỗi khoản vay thế chấp bằng bất động sản có vẻ an toàn tuyệt đối trong sổ sách ngân hàng. Nhưng khi toàn bộ hệ thống tín dụng được neo giữ vào một tài sản duy nhất thì đó là lúc rủi ro tập trung mang tính hệ thống đang âm thầm tiềm ẩn.

Tài chính
/tai-chinh
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất

