II. Vấn đề việc sinh đẻ dựa trên 5 phương diện của con người

4. Về duy lý

“Thật kỳ lạ khi những người tốt sẵn sàng làm mọi thứ để tránh cho con cái họ phải chịu khổ đau, nhưng dường như lại ít ai nhận thấy rằng cách chắc chắn duy nhất để ngăn mọi khổ đau của con cái là không đưa chúng vào đời ngay từ đầu” - David Benatar.
David Benatar là một triết gia đương đại, đã đề xuất Lập luận Bất cân xứng (Asymmetry Argument). Để trình bày nó, hãy xét câu chuyện sau:
Một vị hiereus (một từ chỉ một linh mục của Hy Lạp cổ đại) từng gặp Hermes, người báo tin rằng các vị thần bất mãn với sự tận tụy của ông. Như một hình phạt, họ sẽ đảm bảo rằng mọi đứa con ông sinh ra đều chịu khổ đau khủng khiếp từ lúc chào đời cho đến hơi thở cuối cùng. Sự tồn tại của chúng sẽ tệ hại cho chính chúng ngay từ đầu. Vì vậy, vị hiereus quyết định không có con vì lợi ích của đứa con đó.
Chúng ta dễ dàng thấu cảm quyết định này: nếu ta biết chắc chắn một đứa trẻ sẽ chịu khổ đau, dường như tốt hơn nếu chúng không được sinh ra. Giờ hãy xoay chuyển câu chuyện đôi chút.
Vị hiereus lại nhận một thông điệp khác từ Hermes, cho hay các vị thần thay vào đó sẽ đảm bảo con cái ông có hạnh phúc vô tận, không một giây đau đớn nào, như phần thưởng cho lòng mộ đạo của ông. Đây quả là một phúc lành. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ không phải xuất hiện trên cuộc đời, sẽ không có hại gì xảy ra, vì chúng không tồn tại để trải nghiệm bất kỳ khoái cảm đã hứa nào. Trái ngược với trực giác, việc chúng không sinh ra cũng là một kết quả tốt. Người chưa sinh không chịu khổ vì không tồn tại; không có một thực thể bị tước đoạt nào oán trách việc không được sinh. Một cách nào đó, chúng hưởng sự tự do tuyệt đối mà không cần trả giá. Chúng tự do, không phải dưới dạng sinh thể sống, mà như một khả thể trừu tượng và phi vật chất.
Trong tình huống này, cả sinh ra lẫn không sinh ra đều có thể là kết quả tốt.
Trước khi xem xét sâu Lập luận Bất cân xứng, ta hãy nhìn qua một câu trích dẫn từ Emil Cioran trong The Trouble With Being Born:
“Tôi khao khát được tự do-khao khát một cách tuyệt vọng. Tự do như những kẻ chưa được sinh ra được tự do”.
<i>Triết gia Romania - Pháp Emil Cioran - nổi tiếng với tác phẩm The trouble of being born</i>
Triết gia Romania - Pháp Emil Cioran - nổi tiếng với tác phẩm The trouble of being born
Tự do ở đây không nên hiểu thuần túy là khả năng lựa chọn hay hành động không bị ràng buộc. Tự do ở đây là trạng thái không lo nghĩ, không vướng bận trước khổ đau và những sự kiện của thế gian. Giờ quay lại vấn đề trước, tôi sẽ trình bày bốn kịch bản và phân tích giá trị của đời sống trong các hoàn cảnh này:
1. Đứa trẻ được sinh ra và có một cuộc đời thăng hoa, hưởng nhiều khoái cảm hơn đau đớn. Điều này khiến mức độ hạnh phúc của chúng đủ lớn để xem đời sống là đáng tồn tại. Tồn tại là tốt trong tình huống này, giá trị đời sống cao.
2. Đứa trẻ được sinh ra và phải trải qua hết bi kịch này đến bi kịch khác, khổ đau vượt xa khoái cảm. Điều này khiến nỗi khổ của chúng lớn đến mức cuộc đời không đáng sống. Tồn tại là xấu trong trường hợp này, giá trị đời sống thấp, do đó nên được ngăn chặn ngay từ đầu.
3. Đứa trẻ không được sinh ra. Nếu sinh ra, chúng sẽ có đời sống ngập tràn hạnh phúc. Dù việc không được sinh thường được xem là tiêu cực vì chúng bỏ lỡ khoái cảm, nhưng ở đây đứa trẻ được bù đắp bằng sự tự do, điều này cân bằng cán cân khiến tồn tại và không tồn tại đều tốt như nhau. Tồn tại trong kịch bản 1 là tốt; còn không tồn tại giúp đứa trẻ không phải chịu khổ và cũng không phải bận tâm về điều gì thuộc thế gian, sự tự do này giúp chúng tránh khỏi nỗ lực, dẫn đến tiện ích, vốn là điều tốt.
4. Đứa trẻ không được sinh ra. Nếu sinh, đời chúng sẽ ngập tràn đau đớn. Rõ ràng sự tồn tại sẽ gây hại. Kết quả hợp lý nhất là tránh tổn thất càng nhiều càng tốt. Tồn tại gây hại từ khởi điểm, trong khi lập luận tôi đưa ra trước đó chứng minh rằng không tồn tại đem lại cho đứa trẻ sự tự do đủ để được xem là tốt. Khi cân nhắc giữa một kết quả xấu và một kết quả tốt, lựa chọn hiển nhiên là không tồn tại vì chúng tránh được khổ đau ngay từ đầu và nhận được điều tốt mà không phải trả giá.
<i>Bảng phân tích bốn kịch bản</i>
Bảng phân tích bốn kịch bản
Sau khi xem xét cả bốn kịch bản, ta có kết quả: tồn tại chỉ mang lại 1 trên 2 kết quả tốt, trong khi không tồn tại mang lại 2 trên 2 kết quả tốt. Ta có thể kết luận rằng không tồn tại tốt hơn xét trên xác suất. Chưa kể mọi cuộc đời đều phải chịu khổ đau vượt xa khoái cảm một mức đáng kể thì mới đủ làm động lực sống như đã phân tích. Nếu bạn đồng ý các lập luận trước đó của tôi thì kịch bản 1 và 3 rất khó có khả năng (gần như không thể) xảy ra, điều này để lại một kết quả xấu với tồn tại và một kết quả tốt với không tồn tại, càng khiến lựa chọn nghiêng mạnh về không tồn tại.
Có một lập luận gọi là “Lập luận từ sự khuyết tật” (Argument from disabilities). Tôi sẽ trình bày như sau:
Hãy tưởng tượng toàn bộ nhân loại đều bị mất chức năng đôi chân. Khi đó, việc mất chức năng chân không còn được xem là khuyết tật vì ai cũng như vậy. Áp dụng suy luận này vào khổ đau của con người, khả năng chịu khổ không còn là một dạng khuyết tật, mà là một đặc tính vì ai cũng có.
Có muôn vàn dạng khổ đau xuất hiện trong đời sống, như leo cầu thang, thứ mà ta thậm chí không nhận ra là một dạng khổ đau.
Nếu cộng dồn các khuyết điểm này lại, ta thấy mọi sinh thể không chỉ con người đều liên tục chịu những dạng khuyết tật đáng kể
Ví dụ: Ruột thừa được xem là vô dụng, hay việc con người không biết bay.
Nhìn theo cách này, ta đều mang nhiều khuyết điểm ràng buộc mình ngay từ giây phút sinh thành, càng làm nổi bật khổ đau vốn dĩ phải chịu ngay từ điểm xuất phát. Nếu ta bị trói buộc bởi vô số khuyết điểm ngay từ lúc chào đời, vậy còn điều gì để bảo vệ quan điểm ủng hộ sự sống? Không chỉ 10 đến 15% người phải mang những khuyết tật đặc thù, mà ta còn chắc chắn nhận vô số dạng khuyết điểm khác mà không cần điều kiện. Không được đảm bảo sở hữu năng lực thiên bẩm, nhưng khuyết điểm thì được phân bổ đồng đều cho bất kỳ ai được sinh ra. Không tồn tại từ đầu luôn có thể giúp ta tránh khỏi những “lời nguyền” này. Đây là một dạng tự do mà những kẻ không tồn tại có thể hưởng mà không gây khổ đau cho những người đang tồn tại.
Luận điểm thứ ba của tôi trong phần này là nhận thức làm trầm trọng khổ đau. Động vật chịu khổ theo bản năng, nhưng con người, bị gánh nặng bởi khả năng tự nhận thức, chịu thêm một dạng hành hạ bậc hai: tri thức về chính nỗi khổ của mình.
Trong A Short History of Decay (1949), Emil Cioran cho rằng “con người là sinh vật duy nhất biết mình sẽ chết, và tri thức này đầu độc (tâm trí ta) từng khoảnh khắc”.
<i>A Short History of Decay - Emil Cioran </i>
A Short History of Decay - Emil Cioran
Năng lực phản tư khiến ta nhận ra rằng đời sống chắc chắn sẽ xấu đi, trừ khi ta tự lừa mình rằng “mọi thứ rồi sẽ ổn”. Ta biết rằng luôn có chỗ để khổ đau đến trong tương lai. Sự nhận thức này có thể hành hạ tâm trí sâu sắc hơn hầu hết mọi nhận thức khác.
Nhận thức về khổ đau còn đáng sợ hơn khổ đau không được nhận thức. Mất đi nhận thức về khổ đau giống như được gây mê khi phẫu thuật: thuốc mê làm suy yếu cảm nhận của hệ thần kinh, khiến cơn đau có vẻ nhẹ hơn thực tế. Nếu không có gây mê, cơn đau sẽ tăng gấp hàng trăm lần; điều tương tự xảy ra với khổ đau của chúng ta, nhận thức khuếch đại nó.

5. Về trực giác

“Bởi vậy, ý chí sống ở khắp nơi tự ăn chính mình, và dưới nhiều hình thái khác nhau nó trở thành dưỡng chất của chính nó” - Arthur Schopenhauer
Bạn được phép gây ra khổ đau để ngăn chặn khổ đau lớn hơn cho người khác, ngay cả khi chưa có sự đồng thuận của họ, nhưng bạn không được phép gây khổ đau mà không có sự đồng thuận chỉ để tạo ra điều gì đó tốt, ngay cả khi điều tốt ấy là thứ người chịu tác động có thể hưởng lợi về sau.
Ví dụ: Đa số sẽ xem là chính đáng khi cắt bỏ một chi của một người đang hôn mê nếu điều đó cứu được mạng họ. Vì họ bất tỉnh, họ không thể đưa ra lựa chọn, nhưng hành động này ngăn được khổ đau lớn hơn. Tuy nhiên, sẽ không chính đáng nếu vô hiệu hóa một phần não của ai đó để khiến họ giỏi logic hơn trong khi giảm khả năng sáng tạo nghệ thuật mà không có sự đồng thuận. Một số cá nhân có thể chấp nhận sự trao đổi này, nhưng đó phải là lựa chọn của họ; bạn không thể hy sinh khả năng sáng tạo của ai đó để tăng khả năng logic trừ khi họ đồng ý.
Nguyên tắc này áp dụng cho “ván cược của sự sống”: bạn có thể ngăn một đời sống xuất hiện nếu đời sống ấy chắc chắn sẽ chịu khổ đau, nhưng bạn không thể áp đặt khổ đau lên một sinh thể chỉ vì khả năng đạt được khoái cảm trong một thế giới nơi đau đớn được đảm bảo còn hạnh phúc thì không chắc chắn.
Lý do tôi nói “đa số mọi người” là vì đây là điểm yếu nhất trong lập luận và thuộc về lĩnh vực trực giác hơn là lý tính thuần túy. Mức độ thuyết phục của tiền đề này phụ thuộc rất lớn vào trực giác đạo đức của người đọc; một số người có thể không thấy nó có giá trị ngay từ đầu.
Lập luận tiếp theo bước ra khỏi triết học đạo đức và đi vào triết học hiện sinh, do đó chỉ có thể thuyết phục một bộ phận.
Trong triết học hiện sinh, tôi lập luận từ lập trường phi lý chủ nghĩa, cho rằng đời sống không có mục đích nội tại trái với mong muốn của chúng ta về “ý nghĩa”; mọi ý nghĩa đều là sản phẩm do con người dựng lên, một “lời nói dối” nhằm chống lại sự tuyệt vọng do thiếu đi ý nghĩa sống. Nếu vẫn hoài nghi, bạn có thể đặt câu hỏi “mục đích của việc này là gì” cho mọi hành động mình làm, lặp lại ngay cả với các câu trả lời. Đến một lúc nào đó, bạn sẽ nhận ra rằng vũ trụ sẽ bị hủy diệt, vậy tại sao phải cố gắng; chỉ có một kết thúc duy nhất, bạn sống hay không cũng không thay đổi điều đó. Ngay cả sống vì hạnh phúc cũng không che lấp được sự thật rằng đời sống vốn vô nghĩa.
Một đời sống không có ý nghĩa có thể gây đau đớn hiện sinh tột độ vì nó đối lập với động lực sinh tồn của bạn, tạo ra một dạng khổ đau tinh thần nữa. Sự vô nghĩa của tất cả những khổ đau nêu trên cũng là một dạng khổ đau, khiến chúng chồng chất.
Sinh sản duy trì sự ngụy biện này, ép những nhận thức mới vào hư vô nơi họ phải bịa ra lý do để chịu đựng. Tôn giáo, triết học và các hệ tư tưởng chỉ là ảo giác nhằm chống đỡ cho hệ thống hiện sinh cổ xưa.
Cioran tuyên bố: “Cuộc đời là một chương tập mà không có (và không thể có) sự biện hộ”.

III. Lời kết

Những lập luận được trình bày ở đây, cả những lập luận của riêng tôi và những lập luận được phát triển bởi các triết gia phản sinh đi trước, theo tôi, là đủ để hỗ trợ bảo vệ lập trường phản sinh. Tôi muốn gửi lời xin lỗi nếu ai đó cảm thấy bi quan trước những suy tư này. Văn hóa của chúng ta thường xem giấc mơ và hy vọng về tương lai của con người như điều thiêng liêng, và tôi hiểu rằng đối diện các ý niệm này có thể gây nhiều khó chịu. Điều tôi thực sự mong muốn truyền đạt là một lời mời mang tính thực tiễn và nhân ái cùng từ chối hợp tác với một hệ thống đầy khiếm khuyết, nhằm hướng nhân loại đến việc làm điều đúng đắn: bảo vệ các thế hệ tương lai.
Mọi phản biện mang tính xây dựng đều được chào đón, và tôi sẽ phản hồi sớm nhất có thể cho bất kỳ ai tìm kiếm một cuộc đối thoại văn minh. Cá nhân tôi không hề vui mừng gì với quan điểm này. Ai lại tự nguyện nhìn sự sống với ánh mắt tiêu cực như thế ngay từ đầu? Dĩ nhiên tôi muốn nhìn sự tồn tại của mình và những sự sống khác theo cách tích cực, như đa số mọi người. Nghĩ theo cách thông thường chắc chắn dễ chịu và nhẹ lòng hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tất cả lý lẽ mà tôi thấy được buộc tôi phải nhìn nhận khác đi. Tôi chân thành hy vọng ai đó có thể chứng minh tôi sai bằng lập luận vững chắc.
Chúc mọi người một ngày tốt lành.