BÀN VỀ VẤN ĐỀ CỦA SỰ SỐNG - VÌ SAO CON NGƯỜI KHÔNG NÊN CÓ CON (P1)
Bài viết này tôi sẽ bàn luận và bảo vệ cho Chủ nghĩa Phản sinh!
I. Mở đầu:
Chủ nghĩa phản sinh, một lập trường triết học gán giá trị tiêu cực cho hành vi sinh sản, thách thức một trong những giả định ăn sâu nhất của nhân loại rằng việc đưa một sinh mệnh mới vào thế giới vốn dĩ là điều tốt. Xuyên suốt các nền văn hóa và thời kỳ lịch sử, sinh sản được tôn vinh không chỉ như một mệnh lệnh sinh học mà còn như một phẩm hạnh đạo đức và xã hội. Thế nhưng chủ nghĩa phản sinh đảo ngược tiền đề này, kêu gọi một sự xem xét nghiêm ngặt về việc liệu bản thân tồn tại có thể đủ để biện minh cho những rủi ro, tổn hại và những phức tạp đạo đức không thể tránh khỏi gắn liền với đời sống. Quan điểm này, dù thường bị hiểu nhầm như sự chối bỏ nghĩa vụ làm cha mẹ hoặc một thế giới quan bi quan, thực chất thì nó lại nêu lên các câu hỏi sâu sắc về sự đồng thuận, khổ đau, trách nhiệm, và trọng lượng đạo đức của việc tạo ra những hữu thể không thể lựa chọn việc có tồn tại hay không.
Tư tưởng phản sinh hiện đại rút ra từ nhiều truyền thống triết học đa dạng, bao gồm những quan niệm cổ đại cho rằng đời sống như gánh nặng (đời là bể khổ của Phật giáo hay cuộc đời là một cơn bệnh của Socrates), chủ nghĩa bi quan của Schopenhauer, các luận điểm đương đại của Emil Cioran đặt trọng tâm vào việc giảm thiểu khổ đau cho con người, và lập luận bất cân xứng giữa đau đớn và khoái cảm của David Benatar. Trong thời đại được định hình bởi nguy cơ hiện sinh và các cuộc tranh luận ngày càng quyết liệt về tự chủ cùng phúc lợi xã hội, chủ nghĩa phản sinh đã chuyển dịch từ ngoại biên của diễn đàn triết học vào những cuộc đối thoại đạo đức rộng lớn hơn. Dù người tiếp cận cuối cùng bác bỏ hay chấp nhận kết luận của nó, việc va chạm tư duy phản sinh buộc chúng ta phải xem xét lại ý nghĩa của việc trân trọng sự sống, của trách nhiệm bảo vệ những thế hệ của tương lai, và của hành động có trách nhiệm đối với tất cả cá thể ở mọi thời điểm bất kể đã được sinh ra hay không.
Bài tiểu luận này bao gồm những lập luận cốt lõi của tôi cho chủ nghĩa phản sinh, cùng các biện minh triết học hỗ trợ nó từ năm phương diện: bản năng, cảm xúc, kinh nghiệm, lý tính và trực giác. Bằng việc nghiên cứu sâu những luận điểm này, tôi mong giới thiệu một triết lý đặt vấn đề ngay nền tảng của sự tiếp diễn nhân loại. Tôi hy vọng lập luận của mình có thể khơi gợi một cuộc thảo luận văn minh, lấy lý trí làm công cụ chính cho tranh luận, và vì vậy những lập luận dựa trên cảm xúc hay ngụy biện sẽ không được xem xét trong giới hạn của cuộc tranh biện này.
(Đây là phần một, xét trên 3 phương diện: bản năng, cảm xúc, trải nghiệm)
II. Vấn đề việc sinh đẻ dựa trên 5 phương diện của con người
1. Về bản năng
Con người sở hữu một thôi thúc bản năng để sinh sản; nếu không có điều đó, tôi thực sự hoài nghi liệu loài chúng ta có thể tồn tại nổi một phần tư chiều dài lịch sử của mình. Đặc tính này là kết quả của chọn lọc tự nhiên. Những ai không nhìn đời bằng lăng kính “lạc quan” thường giảm thiểu hoặc khiến nỗ lực sinh sản của mình trở nên vô ích. Họ ít có khả năng tìm bạn đời hơn số đông, và ngay cả khi tìm được, khát vọng sinh con và nuôi dưỡng một đứa trẻ vẫn bị thiếu. Người khôn ngoan thường thiếu những xung lực hỗ trợ ý chí duy trì và tạo ra sự sống của số đông (trong trường hợp này là ý chí sự sống, hay der Wille zum Leben được đề xuất bởi Schopenhauer). Bất kể hệ tư tưởng, những người có quan điểm khác biệt thường bị xã hội cô lập, khiến những người khác nản lòng khi muốn theo đuổi con đường tư duy thấu đáo hơn. Chọn lọc tự nhiên không ưu ái chân lý; nó ưu ái sự sinh tồn. Đó là bản chất của sự sống, và điều này làm cho chân lý càng khó đạt đến khi văn minh mở rộng.

Triết gia phản sinh Arthur Schopenhauer
Bản năng thúc đẩy chúng ta thỏa mãn nhu cầu tình dục trong khi hoàn toàn phớt lờ nỗi khổ bất khả hồi mà ta áp đặt lên các sinh thể khác. Đặc biệt trong những xã hội sơ khai, lúc phương pháp tránh thai chưa tồn tại. Điều này dẫn đến sự tăng trưởng dân số không kiểm soát, góp phần vào khối lượng khổ đau khổng lồ mà ta chứng kiến ngày nay.
Chúng ta cần khổ đau để loài người sinh tồn và duy trì “động lực” sống sót trong môi trường hoang dã. Khổ đau nhắc nhở ta rằng đó là “giết hoặc bị giết” (ít nhất là đối với những loài vật khác ngoài tự nhiên), buộc ta liên tục phát triển những phương thức đối phó với các mối đe dọa tự nhiên.

Ví dụ: Chúng ta chỉ học cách ném đá và phóng lao vào những động vật nguy hiểm để giữ khoảng cách sau khi nhiều thành viên trong loài đã bỏ mạng trong những cuộc đi săn tầm gần. (Hình ảnh: đi săn động vật bằng atltal)
Mọi sinh thể phải gánh chịu khổ đau như một chủ đề trung tâm của tồn tại. Đây không phải đặc trưng của nhân loại. Những loài trải nghiệm khoái cảm quá nhiều có khả năng cao bị loại bỏ khỏi bởi chọn lọc tự nhiên vì thiếu đi ý chí phát triển để sinh tồn. Điều này giải thích cho sự hiện diện rộng khắp của sự đau đớn trong tự nhiên. Ví dụ: một con nai bị kẹt dưới thân cây bị ngã có thể sống sót qua chấn thương ban đầu, chỉ để chết dần trong đói khát. Con nai trong trường hợp này phải chịu đựng nỗi đau và sự tuyệt vọng dày vò nó cho đến khi nó chết. Những nổi thống khổ như thế này không khó để thấy ngoài tự nhiên, càng cho ta thấy rõ rằng thế giới được “lập trình” để “áp đặt” những hữu thể bên trong phải hứng chịu sự đau khổ.
Cái chết có thể xảy đến bởi nhiều lý do. Phần lớn đều kéo dài nỗi đau của người chết đi, chỉ có một tỉ phần nhỏ trong số những ca tử vong là nhẹ nhàng, nhanh chóng và ít gây đau đớn. Tình huống trên cho ta thấy đây là một trường hợp tử vong gây đau đớn cực độ ở cả nỗi đau thể chết và tinh thần cho con nai. Vậy hãy trả lời câu này: "Liệu bạn có muốn được sinh ra trong một thế giới mà bạn phải mạo hiểm chịu rủi ro là một cái chết đau đớn đổi lại một cơ hội cho một cái chết ít gây đau đớn hơn hay không?" . Dễ dàng nhận ra rằng cả hai kết cục đều tệ, nghĩa là đây cũng là một minh chứng cho nỗi đau của sự tồn tại.
Một sinh thể phải tiêu thụ vô số sinh thể khác chỉ để kéo dài đời sống của mình thêm một thời gian ngắn. Nói cách khác, tự nhiên đòi hỏi cái mất của nhiều sinh mạng để duy trì một sinh mạng.

Ví dụ: Cá voi xanh tiêu thụ đến bốn tấn nhuyễn thể mỗi ngày, tức hàng nghìn tỷ cá thể mỗi năm chỉ để duy trì sự sống của một con cá voi (theo National Geographic).
Nguyên tắc này áp dụng cho mọi dạng sống: vi sinh vật, nấm, thực vật và động vật đều bị ràng buộc bởi luật này. Ta có thể kết luận rằng cái chết (một dạng khổ đau) phong phú hơn sự sống (sự né tránh cái chết). Không những ta phải vật lộn để sống, ta còn phải gây ra cái chết cho những dạng sống khác để làm vậy. Luật “giết hoặc bị giết” đè nặng lên gần như mọi sinh thể, đặc biệt là động vật ăn thịt. Hãy hình dung nỗi khổ khổng lồ mà ta gây ra cho những động vật và thực vật chỉ để thỏa mãn bản thân, kiếm thức ăn hoặc bảo vệ mạng sống của mình, trong khi bản thân cuộc sống của ta vẫn tràn ngập đau đớn. Thật là một thảm trạng!
Con người liên tục đối mặt với những tổn hại sinh học như đói, khát, mệt mỏi, ức chế tình dục. Việc thỏa mãn những nhu cầu này đòi hỏi nỗ lực lớn hơn nhiều so với việc trải nghiệm chúng.

Ví dụ: Con người phải ăn liên tục trong suốt đời để tránh đói, nhưng chỉ cần thời gian ngắn không ăn là đã bắt đầu chết dần vì đói lả. (Hình ảnh: người Ireland nhập cư qua các nước khác trong nạn đói khoai tây Ireland 1845-1852)
Tất cả điều này diễn ra với cái giá phải trả là lợi ích của con người. Ta bị bản năng thao túng để kéo dài khổ đau không chỉ cho bản thân mà còn cho thế hệ tương lai.
2. Về cảm xúc
Đây là mệnh đề của tôi: Chúng ta là những sinh thể cảm xúc, và phần lớn trong chúng ta có xu hướng hành xử phi lý. Ta trải nghiệm các cảm xúc tiêu cực với cường độ vô cùng khó chịu; ở đây “cảm xúc tiêu cực” được hiểu là những phản ứng tâm lý gây rối loạn, làm suy yếu trạng thái ổn định tâm trí như một phản ứng trực tiếp trước các mối đe dọa đến phúc lợi bản thân. Điều này tự nhiên dẫn đến xu hướng né tránh các cảm xúc ấy. Trong lịch sử, con người từng cố gắng quỷ dữ hóa những trạng thái đau buồn này bằng cách tưởng tượng ra các thực thể bên ngoài thế giới vật chất như Lucifer và Beelzebub (Công Giáo), Mara (Đạo Phật), Khanas (Hồi Giáo), Black Dog (trong văn hóa dân gian Anh), Acedia và Gello (Hy Lạp cổ), Bieda (Hindu Giáo), Paḥad, Ḥeẓ, Ketev (Do Thái Giáo) và nhiều thực thể khác. Mục đích là để ngăn mọi người sa vào trạng thái tiêu cực bằng cách gắn chúng với những sinh thể nguy hiểm và bí ẩn, dùng nỗi sợ như một công cụ răn đe.

Sử thi Paradise Lost - Hình minh họa Lucifer và Beelzebub trong Kinh Cựu Ước của Công Giáo
Tôn giáo, xét như một tổng thể, là những nỗ lực nhằm giảm bớt khổ đau và đề xuất những con đường giúp hạnh phúc có thể nảy nở. Những nỗ lực này có thể tuyệt vọng, song vẫn đủ mạnh mẽ để thuyết phục đa số. Mục tiêu cốt lõi của tôn giáo là khiến chúng ta tin rằng có một lối thoát khỏi khổ đau. Đây chỉ là ảo tưởng; ta không thể chống lại bản tính “quá đỗi con người” của mình. Khổ đau phải vượt thắng khoái cảm để nền văn minh nhân loại phát triển. Dẫu vậy, tôn giáo cho thấy xu hướng của nhân loại là sử dụng cảm xúc tinh thần như một cách thoát ly khỏi khổ đau giữa cơn hỗn loạn của tồn tại.
Con người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi hiệu ứng Pollyanna. Thiên kiến này khiến ta gần như không thể so sánh chính xác giữa khoái cảm và khổ đau trong đời mình. Điều gì quyết định rằng khổ đau phong phú hơn khoái cảm? Cảm xúc con người vốn mang tính Pollyanna, liên tục làm lệch cán cân khoái lạc về phía tích cực. Do đó, khi đối diện với lựa chọn sinh sản, đa số không do dự, tin rằng thà được sinh ra còn hơn không được sinh ra. Tin rằng đời sống chứa nhiều khoái cảm hơn đau đớn, hoặc ít nhất khoái cảm cân bằng khổ đau, dẫn đến kết luận rằng việc sinh con là tốt hoặc ít nhất trung tính.
Thông qua khuynh hướng Pollyanna này, con người phát triển một thiên lệch tâm lý khiến họ không nhận ra bản chất khổ đau và tổn hại gắn liền với sự tồn tại. Thực tại này quá khó chịu để đối diện trực tiếp, vì thế có một cơ chế tự đánh lừa mang tính tự bảo tồn vận hành như một liều thuốc giảm đau tâm lý.
3. Về duy nghiệm
Đây là điểm khó lập luận nhất. Khi được hỏi liệu cuộc đời họ có đáng sống ngay từ đầu hay không, đa số lập tức trả lời “có”, và còn ít người hơn nữa từng nghĩ đến việc dừng sự tồn tại của bản thân. Đa phần cha mẹ cũng báo cáo cảm giác mãn nguyện lâu dài từ việc có con. Điều này biến việc bảo vệ lập trường phản sinh trở thành một cuộc chiến đi ngược dòng. Và sau đây là những lập luận để bẻ gãy trực giác trên của tôi:
Xuyên suốt quá trình tiến hóa, con người đã phát triển khả năng thích ứng với hoàn cảnh bất kể mức độ khổ đau phi thường mà họ phải chịu, chỉ cần đủ thời gian. Như Albert Camus từng ghi nhận (đặc biệt trong tác phẩm Dịch hạch), mức độ khổ đau từng dày vò ta dần dần cuối cùng sẽ trở thành “bình thường mới”. Sự điều chỉnh tâm lý này là thiết yếu để hình thành một quan điểm lạc quan về đời sống. Khi nhìn lại, khổ đau từng được cảm nhận như không thể nói thành lời có thể được thu nhỏ thành vài biến cố gian khó; tâm trí con người thường tái diễn giải nó như ít nghiêm trọng hơn thực tế.

Triết gia Albert Camus và tác phẩm Dịch Hạch
Theo thời gian, khổ đau mà con người đối diện bị làm giảm mức độ bởi bản tính thích ứng của ta, đây là điều không thể tránh khỏi. Khi khổ đau kéo dài đủ lâu, nó trở thành “bình thường mới”, và ta cần một mức độ đau đớn lớn hơn để cảm nhận tác động của nó, tương tự như một con nghiện cần liều cao hơn sau liều cũ. Điều này không có nghĩa ta thu nhận được điều gì có giá trị từ khổ đau (như sự cứng rắn trong tinh thần) như một phần thưởng; thật ra sức bền chỉ là một khoản bù trừ nhỏ.

Ví dụ: Một cựu binh chiến tranh thường có khả năng chịu đựng gian khổ kéo dài, đặc biệt là những gian khổ về thể xác. (Hình ảnh: người lính của hai cuộc thế chiến Adrian Carton de Wiart, mất đi tay và mắt trái cùng nhiều chấn thương khác)
Con người cũng trải nghiệm đau đớn mãnh liệt hơn khoái cảm. Năm 1979, Daniel Kahneman và Amos Tversky đề xuất Thuyết Triển vọng, trong đó chỉ ra rằng con người đánh giá kết quả so với một mốc tham chiếu, thường là trạng thái hiện tại, và rằng mất mát có sức nặng lớn hơn lợi ích tương đương. Mất 100 đồng bạc gây tổn thương tâm lý lớn hơn mức khoái cảm khi nhận được 100 đồng bạc.

Biểu đồ Thuyết triển vọng của Daniel Kahneman và Amos Tversky
Khi hai tình huống chứa rủi ro và tiềm năng giống hệt nhau nhưng được diễn đạt khác nhau, một nhấn mạnh lợi ích, một nhấn mạnh tổn thất, Thuyết Triển vọng chỉ ra rằng cách diễn đạt có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định.
(Ví dụ: một phương pháp điều trị sẽ được chọn nhiều hơn khi được mô tả là có “90% tỉ lệ sống sót” thay vì “10% tỉ lệ tử vong”.)
Nhiều người từng trải qua điều tương tự: ta đi qua một giai đoạn ổn định, rồi cuộc sống ném vào ta một cuộc khủng hoảng. Chỉ trong hồi tưởng ta mới nhận ra giai đoạn ổn định ấy thực ra là khoảng thời gian tốt đẹp. Ta chỉ thấy được giá trị của nó sau khi nó đã qua, điều này làm nổi bật nỗi khổ của ta. Khoái cảm thường chỉ được nhận ra sau khi nó chấm dứt; điều ngược lại không thể xảy ra, ta không thể trải qua khổ đau mà lại chỉ nhận ra nó sau khi khoái cảm quay lại.
Hãy xem xét phép thử thí nghiệm tưởng tượng này: hãy tưởng tượng trao cho mọi người một lựa chọn, chịu đựng năm phút đau đớn tột cùng, mức khổ đau tệ nhất mà đời người có thể trải nghiệm, để đổi lấy năm phút khoái cảm cực độ, mức khoái cảm tuyệt đỉnh có thể cảm nhận. Bằng chứng cho thấy đa số sẽ từ chối. Tâm trí ta một cách trực giác sẽ nhận ra rằng ta có khả năng trải nghiệm khổ đau mạnh hơn khoái cảm, và do đó đánh giá thỏa thuận này là bất lợi thay vì cân bằng.
Ngay cả nếu ai đó chấp nhận trao đổi, năm phút khoái cảm tuyệt đỉnh có thể nâng chuẩn trải nghiệm của họ cho phần đời còn lại. Họ có thể trở nên nhàm chán với những gì từng khiến họ hứng thú, hoặc cần mức khoái cảm cao hơn nữa để cảm thấy bất kỳ điều gì, một kỳ vọng phi lý. Trong khi đó, năm phút khổ đau vô lượng lại không đủ để xây dựng khả năng chịu đựng; khổ đau phải kéo dài để ta thích ứng. Phán đoán trực giác này có gốc từ lịch sử tích tụ khổ đau của nhân loại.
Dữ liệu thống kê cũng cho thấy rủi ro vốn có của sinh sản: 10 đến 15% thai kỳ là ca sẩy thai (theo Centers for Disease Control and Prevention). Về kinh tế, nuôi một đứa trẻ tại Hoa Kỳ tiêu tốn khoảng 233,000 dollar (USDA năm 2023), thường dẫn đến thâm hụt tài chính trong thời kỳ hậu lao động trẻ em. Những chi phí này được đảm bảo tiêu cực từ trước, trong khi giá trị của cuộc đời sinh ra từ các rủi ro và chi phí ấy không bao giờ được đảm bảo. Điều này dẫn đến một kết luận hiển nhiên: ngay cả khi giá trị của cuộc sống trong tương lai không chắc chắn, hoặc không thể được đảm bảo, chúng ta vẫn chấp nhận rủi ro và trả giá từ trước để sinh sản, khiến “trò xổ số” này trở nên bất lợi.
Những dẫn chứng và tư duy dựa trên trải nghiệm vừa được nêu đã cho thấy sự đau khổ của con người tuy có thể quan sát được nhưng vẫn được nhận ít sự quan tâm hơn những gì nó thật sự xứng đáng.
Còn tiếp...

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
