Bản dịch chuyển văn từ truyền thuyết Sir Gawain and the Green Knight. Dựa theo bản dịch thơ của Jessie L. Weston, J.R.R Tolkien và một số nguồn khác. Mình mới tập tành dịch các truyền thuyết Arthurian nên sẽ không tránh khỏi sai sót, rất mong được nhận các ý kiến đóng góp từ các bạn :_)
SIR GAWAIN AND THE GREEN KNIGHT
SIR GAWAIN VÀ LỤC HIỆP SĨ
II
Arthur đã xuất hiện ở đầu cuộc phiêu lưu này, khi ấy ngài hẵng còn trẻ và ham thích nghe những câu chuyện. Lúc ấy chẳng có mấy chuyện để kể, ngài chắc mẩm đó sẽ là một bữa tiệc buồn chán với ngài, cho đến khi những gì chúng ta vừa được nghe xuất hiện. Không chỉ đức vua, tất cả các quan khách cũng đều thỏa mãn với một trò chơi như vậy trước bữa tiệc, dĩ nhiên họ cũng có đôi chút sợ hãi. Còn Gawain, chàng rất vui vẻ khi thực hiện trò chơi đó, và chàng cũng sẽ không bất ngờ khi tiếp nhận thử thách cuối cùng trong trò chơi. Dù sao, trước lúc ra đi hoàn thành giao kèo, chàng đã tận hưởng mọi thú vui nhất có thể trước khi một năm qua đi. Mùa này nối tiếp mùa kia, đại lễ Giáng sinh chẳng mấy đã gần kề. Tiết trời thì buồn bã và thật kỳ lạ, chẳng có một sự đồng điệu nhất quán nào cả. Gió lạnh thổi heo hút giữa các tầng trời như ngày đông lạnh, mưa rào đổ xuống như mùa hè ấm áp, hoa lá cỏ cây đâm chồi nảy nở như độ sang xuân, chim chóc kêu những tiếng não nề của những ngày đầu thu. Hoa nở thành từng hàng trải khắp các triền đồi, và điểm xuyết những màu sắc tươi tắn cho những cánh rừng thêm phần xinh đẹp.
Những cơn gió nhẹ đưa mùa hè qua đi. Gió đầu thu lướt khắp vùng đất, như một cuộc dạo chơi của thần gió Tây Zephyrus. Ngài dạo bước trên các triền đồi, cỏ cây lay động mỗi bước chân ngài đi. Ngài rong chơi trong những cánh rừng, lá cây xào xạc khi ngài mơn trớn nó bằng những cơn gió nhẹ. Ngài thả mình trên những cánh đồng, biển lúa nhấp nhô như ngọn sóng ngoài biển khơi. Rồi ngài vút bên lên bầu trời, tắm mình trong ánh trăng buổi đêm và sẽ mang ánh dương buổi sớm rong ruổi khắp mặt đất. Ngày qua ngày, vị thần tinh nghịch lang thang các vùng miền, ngọn gió của ngài mang chút hơi ấm sót lại từ mùa hè hòa lẫn sự lạnh lẽo của mùa đông sắp tới. Rồi cỏ cây bắt đầu se lại. Lá cây héo dần rơi trong những tiếng xào xạc của rừng cây. Biển lúa đã trổ bông chờ thu hoạch. Thần gió nhường chỗ cho làn gió cuối thu đón chào Lễ các Tổng Lãnh Thiên Thần.
Gawain, chàng đang ngồi bên cửa sổ, ngắm nhìn những cơn gió đầu đông đang thổi ngoài trời. Với chàng, những cơn gió không đơn thuần là trò chơi ngắn hạn của một vị thần tinh nghịch, hay là sự chuyển động vĩnh hằng do thiên nhiên tạo ra. Đó là những kẻ mang theo thời gian, là dấu chỉ của những thời khắc đang đến gần. Chúng mang hơi lạnh của mùa đông sau những ngày hè nóng nực, chúng phảng phất mùi hương dịu nhẹ của mùa xuân khi những ngày đông sắp kết thúc. Tâm trí Gawain đang cuộn chảy cùng ngọn gió ngoài kia, thể xác Gawain rồi sẽ rời xa chốn này, đi theo dòng chảy luân hồi của gió, theo dòng chảy miên viễn của thời gian.
Thời gian trôi đến ngày Halloween. Vua Arthur cho tổ chức một bữa tiệc làm lễ mừng các vị anh hùng có cốt cách nhất hội Bàn Tròn. Các hiệp sĩ gan dạ và các quý cô quyến rũ ngồi chật bàn. Khách khứa cười nói thoải mái làm sao. Gawain tham gia bữa tiệc vui vẻ, ăn uống no say, rồi chàng đứng lên phát biểu. Chàng nói về người chú thân yêu - chính là đức vua của chúng ta,  về hành trình phía trước, và kết thúc bài phát biểu hùng hồn vừa rồi.
“Và giờ, thưa chúa tể nắm giữ cuộc đời thần, thần xin phép được thỉnh cầu điều này. Thần hiểu cái giá của cuộc hành trình sắp tới, mà thần không cần phải nói là đầy những gian nan và nguy hiểm. Nhưng thần đã quyết sẽ khởi hành càng sớm càng tốt, để tìm vị hiệp sĩ xanh lục, dưới sự dẫn lối của Thiên Chúa.”
Thế rồi những vị hiệp sĩ tài giỏi nhất đang trong lâu đài đến bên chàng. Ywain và Erec, Sir Dodinel de Sauvage, Công Tước xứ Clarence, Lancelot và Lyonel và Lucan, Sir Bors và Sir Bedever - hai người này rất lớn, theo sau là những người khác, cùng Mador de la Port. Toàn bộ những người này đến gần chỗ đức vua, cùng trao nhau những tình cảm nồng thắm tới người chiến hữu sắp đi xa. Họ tiếc cho một hiệp sĩ hào hiệp như Gawain phải thực hiện giao kèo ấy để bảo vệ danh dự và uy tín cho hội hiệp sĩ của mình. Nhưng chàng hiệp sĩ đáng mến ấy đã dỗ dành mọi người.
“Tại sao tôi nên tránh né khỏi một định mệnh kỳ lạ và trắc trở? Tôi có thể trở thành gì mà không thử sức với nó chứ?”
Những ngày tiếp theo, chàng đã sửa soạn hành trang cho cuộc hành trình phía trước. Một buổi sớm nọ, chàng đã đi chuẩn bị những món trang bị, tất cả đều có ngay. Đầu tiên chàng trải một tấm vải từ thành Toulouse ra nền nhà, trên đó là những món trang bị mạ vàng sáng lấp lánh. Vị hiệp sĩ dũng cảm bước lên tấm vải và sắp những món trang bị, đi một đôi găng tay đắt tiền làm từ xứ Tars, rồi đội một chiếc mũ trùm được chế tác cẩn thận, bên trong lót một bộ lông trắng. Họ đeo vào chân vị anh hùng một đôi sabaton, ôm lấy đôi chân bằng một cặp greave bằng thép, và hai chiếc poleyne mang những hoa văn bóng bẩy được ghép vào khớp gối bằng khớp nối bằng vàng. Một bộ cuisse cứng cáp ôm lấy cặp đùi vạm vỡ đã mặc một chiếc quần dài. Tiếp đó một chiếc byrnie bằng thép trùm lên cơ thể khỏe khoắn của chàng. Một đôi giáp tay sáng bóng bao bọc cánh tay chàng, với những mảnh thép bảo vệ khuỷu tay và một đôi găng sắt. Chàng đang mang trên mình những mảnh giáp phục tốt nhất và đẹp nhất, với một chiếc áo bằng lông vàng khoác ngoài bộ giáp thân cùng một tấm lụa mang tấm hiệu thắt quanh eo.
Chàng trang bị những mảnh giáp cực kỳ đắt tiền, chỉ mấy miếng nối dây cương hay ghim gài cũng được làm bằng vàng rồi. Chàng mặc bộ giáp phục đến dự lễ cầu nguyện cho chàng. Chàng nghe mọi người chúc tụng, dâng lễ và thờ phụng ban thờ trên cao. Rồi chàng tới trước đức vua và hội hiệp sĩ, và các vị quan khách cùng các quý cô đến bên chàng. Họ ôm hôn chàng và cầu cho Đức Kitô trông coi chàng. Khi đó chú chiến mã Gringolet đã sẵn sàng, mang một chiếc yên cương trang trí những tua rua lấp lánh ánh vàng. Bộ móng chú đã được đóng mới, sẵn sàng bước trên con đường gian nan phía trước. Dây cương được buộc lại bằng những nút thắt vàng. Chú đeo một tấm giáp trước ngực, sợi dây đuôi và áo choàng ngựa được đặt dưới yên cương, được điểm xuyết bằng những viên ngọc đỏ rực rỡ, lấp lánh dưới mặt trời. Chàng hiệp sĩ cầm lấy chiếc mũ trụ và hôn lên nó. Chiếc mũ được đóng rất chắc chắn và nhồi bông bên trong. Chàng đội mũ, gạt phần mặt ra sau đầu; chiếc mũ được trang trí những viên ngọc đẹp đẽ nhất trên viền tấm lụa, được thêu hình con két đang rỉa lông, một con cu gáy và một đôi chim thêu xen kẽ. Có nhiều loài chim đã ở thành đô này suốt bảy mùa đông. Phần tròn quanh chóp mũ còn quý giá hơn thế - được trang trí bằng rất nhiều viên kim cương óng ánh.
Họ mang chiếc khiên đến cho chàng. Một hình ngôi sao năm cánh nổi bật bên trên, lấp lánh ánh vàng. Chàng cầm lấy giải đeo và đặt sau lưng; trông thật giống như một người hùng trong truyền thuyết. Và tôi nghĩ tôi nên nói cho các bạn biết vì sao họ chọn hình ngôi sao năm cánh, mặc dù chúng ta sẽ hơi bị chậm trễ. Ngôi sao năm cánh là một biểu tượng do Solomon sáng tạo ra, đại diện cho sự thật. Bởi Nó là một hình có năm điểm, mỗi đường nối với nhau và khóa chặt với nhau, tạo thành một đường vẽ liên tiếp. Bởi thế, đôi khi tôi được nghe ở Anh rằng, ngôi sao năm cánh là nút thắt vô tận. Các vị hiệp sĩ thường trang trí ngôi sao năm cánh, bởi nó gắn liền với 5 đức tính của một hiệp sĩ. Gawain hào hiệp và thiện lành, tránh xa mọi thứ xấu xa; đức hạnh của chàng đã được tôn vinh và ân sủng. Chính vì vậy, ngôi sao năm cánh sáng bóng trên chiếc khiên của chàng kia cũng đang thể hiện chủ nhân của nó là một người trung thực, và là hiệp sĩ lịch thiệp nhất.
Chàng có năm năng lực trí óc; năm ngón trên một bàn tay; năm vết thương Chúa Giêsu phải chịu trên thập giá như kinh tin kính đã kể; dù chiến trường có khốc liệt và chàng phải bạo tàn, Gawain luôn luôn đặt sự ngoan đạo của mình lên trên mọi thứ - sức mạnh của chàng đến từ năm niềm vui của Đức Mẹ khi người hạ sinh. Bởi thế nửa già chiếc khiên của chàng mang hình Đức Mẹ, để khi chàng nhìn vào chiếc khiên, chàng sẽ vững tâm và lòng can đảm sẽ không bao giờ biến mất. Bộ năm thứ tiếp theo tôi thấy vị anh hùng này sở hữu, là sự rộng lượng và tình bằng hữu nằm trên hết, sự thanh sạch và lịch thiệp không bao giờ đổi thay, và lòng thương xót vượt qua mọi phẩm chất. Năm điều này được chàng đề cao hơn tất thảy. Bây giờ tất cả những điều trên được tăng lên gấp năm lần trong vị hiệp sĩ này, và mỗi điều được gắn chặt vào một điều khác, cứ bất tận và không có điểm kết thúc, không bao giờ mất đi, không cắt nhau ở đâu và không bị khuất phục, dù cho hành trình bắt đầu hay kết thúc. Trên chiếc khiên ấy, ngôi sao năm cánh có những sọc vàng ánh đỏ. Đó mới thực là hình ngũ giác mang ngôi sao năm cánh như người ta thường gọi. Giờ chàng hiệp sĩ Gawain đã đầy đủ trang bị. Chàng cầm lấy cây thương, và trong ngày đẹp trời hôm ấy, chàng đã sẵn sàng lên đường.
Chàng thúc chú chiến mã bằng gót giày lào về phía trước, móng ngựa tóe lửa khi va vào sỏi đá. Những người tiễn chàng, những người biết rõ sự lịch thiệp và hào hiệp của chàng hiệp sĩ, thở dài từ cõi lòng, và những vị hiệp sĩ nói chuyện với nhau bằng những cảm xúc chân thành nhất dành cho người chiến hữu đã đi xa.
“Nhân danh Chúa Kitô, thật là đáng buồn khi một vị anh hùng đã phải từ biệt, một người trang nhã và quý phái hơn tất thảy. Thật sự ta chẳng thể tìm được ai sánh ngang với anh ấy. Anh ấy rèn luyện khối óc hơn là sức mạnh cơ bắp. Anh ấy xứng đáng trở thành một vị công tước hơn là một hiệp sĩ. Thật may mắn cho chúng ta đã được làm bạn với một con người trân quý như thế! Anh ấy đã có thể làm được nhiều thứ hơn là phải đánh trò với một kẻ kỳ khôi và phải lãnh nhận cái chết. Vị vua nào có thể mạo hiểm một hiệp sĩ như vậy trong trò chơi quái quỷ ngày Giáng sinh?”
Những dòng lệ ấm nóng đã chảy tràn đôi mắt họ từ lâu rồi, có khi là từ trước hôm Gawain lên đường. Chàng không dừng lại, đi từng bước mạnh bạo trên con đường của mình, cũng như nhiều con đường nhọc nhằn và chông gai phía trước, như tôi đã được nghe kể.
Vị anh hùng của chúng ta Sir Gawain đang băng vương quốc Logres; chàng không dám la cà ở chỗ này. Chàng đơn độc bước đi, ánh trăng là kẻ đồng hành, đất lạnh là người tình say ngủ. Không đồng đội nào có thể cứu lấy chú chiến mã của chàng. Không chiến hữu nào được Chúa cử đến. Lúc đó chàng đã đến gần Bắc Wales, và rời khỏi quần đảo Anglesey phía bên trái chàng. Chàng băng qua các pháo đài nằm rải rác trước khi vào địa phận Holyhead. Chàng đi tiếp đến vùng hoang dã của Wirral, chẳng được mến yêu bởi người dân vùng ấy, và có lẽ là cả Thiên Chúa! Mỗi nơi chàng tới, chàng chỉ nấn ná một chút trước khi tiếp tục lên đường, chủ yếu là để hỏi thông tin về một vị hiệp sĩ phủ màu xanh lục, hay một nhà nguyện nào đó gọi là Nhà Nguyện Xanh? Và tất cả đều trả lời rằng “Không,” suốt đời họ chưa từng thấy người nào như vậy. Chàng hiệp sĩ đã băng qua nhiều đường lạ lùng và nhiều lối khó đi. Vẻ ngoài của chàng đã thay đổi hoàn toàn trên đường tới Nhà Nguyện Xanh.
Chàng đã leo lên rất nhiều vách đá ở vùng đất vô danh, lang thang trên những con đường đầy xa lạ. Kẻ địch thì nhiều tới nỗi, nếu chàng gặp tới một con suối hay một ngã đường mà không có một kẻ kỳ quặc nào đó chặn đánh, ấy không phải là điều bình thường. Mà đó mới chỉ là một trong những điều kỳ lạ chàng hiệp sĩ gặp trên đường, mà để kể ra toàn bộ những điều kỳ lạ thì đủ cho tôi viết thành một cuốn sách về những sự lạ chàng hiệp sĩ gặp phải. Đôi khi chàng chiến đấu với rồng và sói; đôi khi với những gã man rợ sống trong hang hốc; có lúc với những con bò đực, gấu lớn và lợn rừng; hoặc với những người khổng lồ ở vùng đồng hoang cao, cỏ mọc cao gần bằng chàng. Nếu chàng không phải là một hiệp sĩ hùng mạnh, kiên cường và dũng cảm, chắc chắn chàng đã mất mạng, vì cửa tử luôn kề cận chàng. Tuy nhiên, chàng không quan tâm nhiều đến những cuộc chiến. Thứ chàng quan tâm hơn cả, và cũng thấy tệ hơn cả, là khi những giọt nước trú ngụ trên làn mây bắt đầu đông cứng lại, và chúng rơi xuống không phải là những giọt nước mát lành, mà là những bông tuyết lạnh thấu. Nhiều khi chàng ngủ trên những bãi đất hoang vắng, suýt bị chôn vùi dưới lớp tuyết dày, và dòng nước chảy từ đỉnh đồi mang theo những phiến băng giá lạnh.
Khó khăn hiểm trở và vất vả gian nan không làm chùn bước chân chàng hiệp sĩ. Chàng đơn thương độc mã đi tìm điểm hẹn cho đến tận đêm Giáng Sinh. Chàng thỉnh nguyện Đức Trinh Nữ dẫn lối cho bước chân của chàng và đưa chàng đến trú ngụ tại một nơi nào đó.
Vào buổi sáng ngày Giáng Sinh, chàng đi qua một ngọn đồi, và tiến vào một khu rừng hoang vu và ảm đạm. Hai bên đường những ngọn đồi cao, và dưới chân đồi là những khu rừng rậm rạp, có cả trăm cây sồi lớn, cùng cây phỉ và táo gai, với những chùm cây đan xen chằng chịt, và rêu phong xù xì trải rộng. Trên những cành cây trơ trụi, những chú chim kêu ríu rít vì cái lạnh bao trùm. Chàng hiệp sĩ trên chú chiến mã Gringolet đơn độc bước đi, băng qua đầm lầy lầy lội, trong lòng dấy lên những nghi hoặc rằng Thiên Chúa có giúp đỡ chàng hay không, trong chính cái ngày ngài giáng thế để cứu độ nhân loại. Rồi chàng thở dài và nói.
“Con cầu xin Ngài, Chúa ơi, cùng Đức Mẹ Maria, Mẹ hiền của Ngài, cho con được một nơi trú ngụ, nơi con được nghe Thánh lễ, và nghe kinh cầu nguyện Ngài lúc sớm mai. Con thỉnh cầu ngài với sự khiêm nhường, cho con một nơi đọc lời Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng và Kinh Tin Kính.”
Thế rồi, chàng vừa đi vừa cầu nguyện, vừa thú nhận những việc làm không đẹp lòng Chúa của mình, và rồi chàng đã tự vượt qua những lo âu, và nói, “Cầu cây Thánh Giá của Đức Kitô ban sự nhanh nhẹn cho con.”
Chàng hiệp sĩ đã thú nhận ba lần và vượt qua lo âu ba lần, và đến lần thứ ba, chàng nhận ra chàng đang ở trong một cánh rừng thuộc khuôn viên một lâu đài. Có một con hào nằm trên một bãi cỏ, bờ hào trồng một hàng cây sừng sững. Đây thực là tòa lâu đài đẹp nhất mà một hiệp sĩ từng sở hữu. Lâu đài được xây dựng trên một đồng cỏ rộng lớn, với hàng cây gai nhọn là hàng rào, được bố trí gọn ghẽ và bao quanh là những cánh rừng trải dài hơn hai dặm. Chàng hiệp sĩ đang ở bìa rừng, gần chàng là những cây sồi. Chàng bỏ chiếc mũ trụ xuống, thầm cảm ơn Đức Kitô và Thánh Julian đã nghe thấy lời thỉnh nguyện của chàng và biến nó thành sự thực.
“Giờ thì,” chàng hiệp sĩ nói, “Con cầu xin các bậc bề trên, hãy ban cho con một nơi trú ngụ bình ổn.” Rồi chàng thúc chú chiến mã Gringolet bằng gót giày vàng của mình, đi về phía cổng lớn, và nhanh chóng đến đầu cầu treo.
Cây cầu treo đã kéo lên và các cánh cổng đã đóng lại. Những bức tường vững chãi và rất dày, không phải lo những cuộc tấn công bất ngờ. Chàng hiệp sĩ ngồi trên lưng chú chiến mã ở bước đến bờ con hào sâu bao quanh lâu đài. Chân tường chìm sâu trong nước, và từ đó bức tường nhô lên một độ cao kỳ vĩ. Mặt tường mài nhẵn không còn chút gồ ghề, có những nét khắc trang trí sâu vào tường. Các tháp canh đầy lỗ châu mai, cùng một dãy tiền đồn mà Sir Gawain chưa từng thấy bao giờ. Và bên trong, chàng nhìn thấy một sảnh đường to lớn, cùng tòa tháp mang rất nhiều cửa sổ với những phù điêu ở viền cửa, và những ống khói phấn trắng trên những ngọn tháp sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Và khắp nơi là những chóp nhọn nằm dày đặc khắp tòa lâu đài, chúng trắng sáng tới nỗi tưởng như những chóp nhọn này được gấp từ giấy trắng.
Chàng hiệp sĩ nghĩ rằng chàng có thể xin tá túc trong lâu đài này cho đến khi đại lễ qua đi. Thế rồi, bằng chất giọng oai nghiêm, chàng gọi lớn, và ngay sau đó, một người gia nhân ló ra từ trên bức tường. Người gia nhân mỉm cười chào Gawain bằng khuôn mặt phúc hậu, lòng tự hỏi không biết người lạ mặt dưới kia đang muốn gì đây?
“Chào ngài,” Gawain nói, “ngài có thể tới gặp chủ nhân của ngài giúp tôi, và cho phép tôi được tá túc ở đây không?”
“Tất nhiên là được chứ, nhân danh ơn phước Thánh Peter,” người gia nhân trả lời. “Chúng tôi luôn chào đón những người như ngài vào lâu đài này, thưa ngài Hiệp Sĩ.”
Người gia nhân khuất dạng. Một lúc sau, anh ta quay lại cùng nhiều người khác tới chào mừng người khách lạ. Họ thả cây cầu treo xuống, quỳ rạp trên nền đất lạnh để chào mừng chàng hiệp sĩ trước cổng kia. Cánh cổng lâu đài mở rộng, chàng hiệp sĩ bước qua cầu và chào mọi người nhã nhặn. Rồi một vài người tới gần chàng, nắm lấy dây cương, giúp chàng xuống ngựa và dắt chú ngựa đi. Một số hiệp sĩ và hộ vệ xuống dưới đại sảnh để nghênh đón chàng vào sảnh đường và làm tăng thêm niềm hoan hỉ. Khi chàng kéo mặt mũ lên, có nhiều người muốn giúp chàng tháo mũ và rất sẵn lòng làm theo những gì chàng cần. Rồi họ cất thanh kiếm và tấm khiên giúp chàng.
Sir Gawain đã gửi lời chào tốt đẹp nhất đến các vị công vương quý tộc đã tới để chào đón chàng. Khoác lên mình bộ giáp phục sáng chói, họ dẫn chàng đến sảnh đường, nơi có một ngọn lửa lớn cháy rực trên nền nhà. Vừa lúc đó vị lãnh chúa của họ bước ra từ gian phòng để gặp chàng. Ông hướng về chàng hiệp sĩ và nói.
“Ngài luôn được chào đón ở chừng nào ngài muốn ở lại. Mọi thứ ở đây đều là của ngài và ngài toàn quyền sử dụng chúng.”
“Tôi thực lòng cảm kích!” Gawain đáp lại. “Cầu Chúa Kitô đền đáp ân huệ của các ngài.”
Như những người bạn thân thiết, họ ôm chầm lấy nhau.
Vị chủ nhân của tòa lâu đài này đã lớn tuổi. Dù thế, ông vẫn toát ra một vẻ dũng mãnh, chân bước đi mạnh mẽ. Chòm râu ông chạm đến ngực, khuôn mặt ông đỏ hồng như ánh lửa, chân tay ông rắn chắc, giọng nói ông uy nghiêm. Nhìn chung, ông dường như rất phù hợp với vị trí thủ lĩnh của một hội hiệp sĩ.
Sau đó, vị lãnh chúa dẫn Sir Gawain đến lối vào một căn phòng. Ông lệnh cho mọi người phục vụ chàng hiệp sĩ tận tình. Như lời chủ nhân, gia nhân, cùng nhiều người nữa đang đến, đưa chàng hiệp sĩ vào một căn phòng đẹp đẽ. Tại đó, có một bộ giường rất quý phái, treo những tấm rèm lụa làm từ tơ nguyên chất được dát vàng, và những tấm vải thêu kỳ công. Khung màn có những vòng dây vàng đỏ. Tường căn phòng được trang trí bằng những tấm thảm thêu xứ Tars và thành Toulouse, và sàn nhà cũng trải những tấm thảm này. Họ bước vào trong, và gia nhân gỡ byrnie cùng bộ giáp phục sáng chói của chàng hiệp sĩ. Họ mang cho chàng thay một chiếc áo choàng. Khi chàng mặc nó lên, bất cứ ai nhìn vào đều đồng ý rằng Thiên Chúa chưa từng tạo ra một vị hiệp sĩ nào đẹp đẽ như vậy. Trông chàng như một vị hoàng tử xung phong nơi chiến trận cùng những chiến binh khác mà chẳng màng tới gốc gác quý phái của bản thân.
Họ chuẩn bị một chiếc ghế êm ái cho Gawain trước lò sưởi, phủ lên người chàng một tấm vải choàng màu nâu được thêu rất đẹp. Chàng ngồi ở đó, cảm nhận ngọn lửa từ lò sưởi đang kêu tí tách, tận hưởng sự ấm nóng đang len lỏi trong cơ thể vừa trải qua hành trình gian nan. Trong lúc đó, gia nhân trải tấm khăn màu trắng lên bàn ăn, bày biện khăn ăn và đồ bạc sáng bóng. Họ mang những món thịt và rượu vang, toàn là những món đặc sản và rất ngon miệng. Mỗi món có đến hai đĩa. Còn cá được nướng trong lò, hoặc được hấp chín, hoặc được hầm và ướp với nhiều loại gia vị. Tất cả đều được chế biến theo mong muốn của chàng hiệp sĩ. Mọi người cùng ăn uống và trò chuyện vui vẻ, rồi một người lên tiếng.
“Bạn thân mến, hãy tận hưởng những điều tốt lành này để cải thiện sức khỏe và tinh thần của anh.”
Và chàng hiệp sĩ quả đã tận hưởng hết mình những điều tốt lành ấy.
Với một sự lịch sự, họ bắt đầu hỏi chuyện về vị khách mới ghé thăm. Thể theo mong muốn, chàng hiệp sĩ bắt đầu kể rằng chàng đến từ một nơi khá có tiếng tăm, đó là đô thành của vua Arthur đáng kính, một vị vua giàu có và quyền uy, là chủ nhân của hội hiệp sĩ Bàn Tròn. Bản thân chàng cũng là một hiệp sĩ và tên là Gawain, và chàng xin được ở lại lâu đài vào ngày Giáng Sinh chừng nào còn được phép. Nghe xong những điều ấy, vị lãnh chúa trở nên mừng rỡ hết sức, và những người quanh đó cũng đều chung một niềm vui vẻ như chủ nhân của họ, bởi vị khách của họ đây vốn nổi danh bởi sự dũng cảm lịch thiệp, hào hiệp và gan dạ hơn bất cứ ai trên cõi đất. Họ nói với nhau.
“Giờ chúng ta sẽ được chứng kiến cách cư xử lịch thiệp và cách nói năng nhã nhặn không làm ai bận lòng, những mánh lới khiến người ta nghe theo mà không cần hỏi trông, bởi chúng ta đang đón chào một bậc thầy về lĩnh vực này. Hẳn Đức Chúa Trời đã ban hồng ân cho chúng ta để ngài Gawain đây trở thành khách trong lâu đài này vào lễ Giáng Sinh! Khi người ta hát hò và vui chơi mừng sự ra đời của Chúa Kitô, thì ngài hiệp sĩ này sẽ giúp chúng ta học cách ứng xử nhã nhặn và lịch thiệp, và từ đôi môi của ngài chúng ta sẽ biết cách nói ra những lời lẽ ngọt ngào và hợp lòng nhất.”
Khi bữa ăn kết thúc cũng là lúc xế chiều. Ánh dương tàn đang nhường chỗ cho đêm đen. Ấy cũng là lúc tiếng chuông lễ từ nhà nguyện hòa cùng tiếng ca Thánh Lễ. Vị lãnh chúa cũng rất muốn nghe thánh ca, và phu nhân của ông cũng vậy. Phu nhân cùng vài nữ tỳ bước vào gian thay đồ. Gawain đi theo lãnh chúa. Ông phất tay áo mời chàng ngồi vào ghế, chuyện trò với chàng bằng chính tên thật, và nói với chàng rằng chàng là người được chào đón nhất trên thế gian. Chàng hiệp sĩ rất cảm kích những lời ấy. Họ ôm hôn nhau, và ngồi cùng nhau trong suốt buổi lễ.
Và rồi phu nhân bước ra từ gian thay đồ, cùng với rất nhiều nữ tỳ. Vẻ đẹp của nàng, dáng người của nàng, khuôn mặt của nàng, chàng hiệp sĩ thầm nghĩ, còn đẹp hơn cả hoàng hậu Guinevere. Nàng bước qua bàn lễ để chào đón chàng hiệp sĩ, bên tay trái nàng một người phụ nữ lớn tuổi hơn nàng, trông rất sang trọng và quý phái. Nhưng nếu phu nhân và các nữ tỳ mang vẻ thanh khiết của màu trắng, thì người phụ nữ kia lại mang màu vàng. Một bên gò má bà đỏ hồng, một bên làn da bà nhăn nheo và thô ráp. Phu nhân đội chiếc khăn đính những viên ngọc trai sáng lấp lánh. Cổ nàng để trần, để lộ làn da trắng như tuyết. Còn người kia quấn một chiếc khăn quanh cổ, quấn dần vượt qua cả cằm. Bà đội một lụa quấn nhiều lớp, tới nỗi ta chẳng thể nhìn thấy lông mày, mắt, mũi và môi, bởi chúng đã bị che đi và khuất trong những lớp khăn. Người ta có thể gọi bà là một nữ tế! Dẫu vậy, bà vẫn đủ khả năng quan sát mọi thứ để trông bà không như cần phu nhân dẫn tay đi.
Phu nhân nhìn Gawain một cách ân cần. Gawain cũng nhìn lại, và chàng rời khỏi vị lãnh chúa, bước nhanh đến trước mặt người đẹp. Chàng cúi đầu chào người lớn tuổi kính cẩn. Còn với phu nhân, chàng nâng bàn tay của nàng và nhẹ nhàng hôn, cùng với kiểu chào của một hiệp sĩ. Phu nhân vui mừng coi chàng là một người bạn, và chàng hiệp sĩ liền nói rằng chàng sẽ sẵn lòng làm những gì phu nhân mong muốn. Rồi họ đưa chàng đi cùng họ, vừa trò chuyện vừa tiến vào một căn phòng. Trong ấy có một cái lò sưởi cùng những thứ hương liệu và rượu vang do gia nhân mang vào. Vị lãnh chúa đứng lên ra hiệu cho họ tiếp tục cuộc vui. Ông treo chiếc mũ trùm lên một ngọn thương, giả làm người được tôn sùng nhất trong đại lễ Giáng Sinh.
“Và ta sẽ gắng sức, bằng đức tin của ta, để đánh lừa nó bằng những gì tốt nhất, với sự giúp đỡ của bạn bè, nếu không, ta sẽ đánh mất y phục của ta.”
Vậy là, với những lời đùa, vị lãnh chúa đã ra lệnh cho Gawain mặc áo gile đêm hôm đó. Chàng chờ đến khi đèn cầy đã thắp sáng, liền ra khỏi phòng và đi nghỉ.
Giáng Sinh là ngày lễ mà mọi người tưởng nhớ sự giáng thế để cứu độ loài người của Chúa Kitô, với niềm hân hoan và vui mừng ở khắp thế gian; tại lâu đài này cũng như vậy. Tiệc đã tàn, thịt đã ăn, rượu đã uống. Các vị quan khách ngồi đường hoàng trên ghế. Công nương lớn tuổi ngồi cạnh vị lãnh chúa. Gawain được ngồi cạnh phu nhân, và họ vẫn ngồi như vậy từ đầu bữa tới cuối bữa. Có rất nhiều niềm vui trong bữa tiệc, và kể về chúng sẽ rất mất thời gian. Tôi nên nói về Gawain và phu nhân, họ rất vui khi được trò chuyện với nhau qua những lời ngọt ngào và cách nói năng nhã nhặn. Âm nhạc nổi lên, tiếng kèn, tiếng trống, tiếng sáo ca một bài nhạc vui nhộn. Tất cả đều lắng nghe.
Họ tổ chức những bữa tiệc thịnh soạn vào ngày hôm đó và ngày tiếp theo, và ngày sau đó nữa. Niềm vui vẫn kéo dài đến Ngày Thánh John, vì sau ngày đó các vị khách khứa sẽ khởi hành rời đi. Bởi vậy, họ dậy từ sớm, uống rượu và nhảy múa mừng đại lễ, và cuối cùng khi trời đã muộn, mỗi người xin nghỉ để đi ngủ sớm. Gawain dự định từ biệt vị lãnh chúa, nhưng ông đã nắm lấy tay chàng, và dẫn chàng đến phòng riêng của ông. Cả hai ngồi cạnh lò sưởi, và tại đó vị lãnh chúa cảm ơn chàng hiệp sĩ vì chàng đã cho ông cơ hội chào đón chàng tại chính ngôi nhà của ông, và chàng luôn hài lòng với những gì ở tòa lâu đài.
“Ta xin thề trên danh dự, suốt cuộc đời này, sẽ không có món quà nào tuyệt vời hơn việc ngài Gawain đây trở thành vị khách của ta trong đại lễ Giáng Sinh!”
“Tôi rất cảm kích, thưa ngài,” Gawain nói, “với tất cả thiện ý, vinh dự thuộc về ngài, cầu cho Đức Kitô ban cho ngài, và tôi tùy ý làm theo ý muốn của ngài, vì tôi rất kính trọng ngài và là kẻ thấp hèn trước ngài.”
Và vị lãnh chúa làm mọi cách để níu chân Gawain. Đáp lại, Gawain nói rằng chàng không thể trì hoãn thêm chút nào nữa.
Vị lãnh chúa lịch sự hỏi điều gì đã khiến Gawain phải vội rời đi vào đại lễ này và tiếp tục cuộc hành trình cô độc như thế. Chàng trả lời.
“Bởi vì, thưa đức ngài,” chàng hiệp sĩ nói, “sự thật là, tôi đi xa đến nhường này để thực hiện một nhiệm vụ cao cả, bởi tôi được hiệu triệu tới một nơi, mà tôi không thể biết rằng nơi ấy nằm ở chỗ nào trên thế gian này. Vậy cầu Chúa xin hãy thương xót cho con, bởi con đã lang thang khắp đất Logres mà Năm Mới sắp cận kề. Và lẽ vậy, thưa đức ngài, tôi cầu khẩn ngài nói cho tôi được biết nếu ngài đã từng biết về Nhà Nguyện Xanh, và nơi nó tọa lạc, cùng Lục Hiệp Sĩ ở trong. Vì tôi đã thực hiện lời thề ngắn gọn mà trang trọng với ngài ta, rằng tôi sẽ tới gặp vị hiệp sĩ đó vào đầu Năm Mới nếu như tôi còn sống. Và giờ không bao lâu nữa Năm Mới sẽ đến, và tôi tin chắc rằng cảnh ngài ta cười cợt sẽ khủng khiếp hơn bất cứ cảnh tượng nào khác! Do đó, tôi xin đành từ biệt ngài, bởi tôi chỉ còn ba ngày để thực hiện giao kèo của tôi.”
Vị lãnh chúa nghe xong liền bật cười và nói.
“Vậy giờ anh hãy cứ ở lại, vì ta sẽ cho anh biết điểm đến Nhà Nguyện Xanh của anh cho tới khi đại lễ kết thúc. Hãy cứ thoải mái ở lại đây cho đến ngày thứ tư tức là ngày đầu năm, rồi hẵng tới nơi ấy vào buổi sáng và làm điều anh muốn. Ở lại đây cho đến Năm Mới rồi khởi hành, bởi đích đến của anh không còn xa đâu. Nơi ấy cách đây không tới hai dặm đường.”
Gawain trở nên vui mừng, và chàng cười vui vẻ.
“Xin cảm tạ ngài, hơn bất cứ điều gì ngài từng dành cho tôi. Đích đến của tôi nay đã rõ, vậy tôi sẽ ở đây theo ý của ngài, cũng như nguyện thực hiện những gì mà ngài mong muốn.”
Vị lãnh chúa ôm chầm lấy chàng, và đưa chàng ngồi bên cạnh mình. Ông ra hiệu cho các công nương cùng đến chung vui với ông. Vị lãnh chúa cực kỳ vui sướng, đến nỗi tưởng như ông chưa bao giờ vui sướng như vậy. Ông nói to với chàng hiệp sĩ.
“Anh đã hứa nguyện thực hiện những gì mà ta mong muốn. Vậy anh có muốn thực hiện một việc này, ngay tại đây và ngay lúc này không?”
“Thưa, có chứ,” chàng hiệp sĩ chân chính ấy nói, “chừng nào tôi còn ở trong dinh cơ của ngài, tôi nguyện làm mọi việc ngài mong muốn.”
“Anh đã đi từ xa tới đây,” vị lãnh chúa nói, “và cả khi anh thức dậy tại lâu đài của ta, ta biết là anh không có một đêm nào ngủ ngon hay ngày nào tâm tư thanh tịnh. Vậy thì, anh hãy cứ yên tâm ngủ nghỉ trong phòng, dù trời đã sáng hay giờ lễ đã đến. Và ăn uống thoải mái cùng với phu nhân của ta, nàng sẽ ngồi cùng với anh, trò chuyện cùng anh cho tới khi ta trở về, bởi sáng mai ta sẽ vào rừng đi săn.”
Với mọi phép lịch sự và nhã nhặn nhất có thể, Gawain chấp thuận những điều ấy.
“Hỡi hiệp sĩ,” vị lãnh chúa tiếp tục, “chúng ta sẽ lập một giao kèo. Bất cứ thứ gì ta kiếm được trong rừng sẽ thuộc về anh, và bất cứ thứ gì anh nhận được khi ở đây, anh sẽ đưa lại chúng cho ta. Hãy cùng thề với ta, hỡi người bạn đáng mến, để chúng ta tạo lập cuộc trao đổi này, dù những gì chúng ta nhận tốt hơn hay tệ hơn.”
“Nhân danh Thiên Chúa,” Gawain hào hiệp đáp lời, “bởi đó là mong muốn của ngài, tôi xin nguyện làm theo.”
“Nào, hãy mang rượu ra đây, bởi giao kèo đã được thực hiện,” vị lãnh chúa nói. Họ, cả các công nương, cùng cười với nhau, cùng nâng cốc uống rượu, bởi điều ấy làm họ thoải mái và hài lòng. Và khi cuộc trò chuyện giữa những con người đáng mến ấy kết thúc, họ đứng dậy, gửi tới nhau những lời chào nhã nhặn, cùng những cái hôn thân tình. Họ rời khỏi nhau, mỗi người cầm một ngọn nến cùng gia nhân dẫn họ đến phòng nghỉ của mình. Khi đã về đến phòng, vị lãnh chúa nói lại giao kèo ông đã hẹn thề, bởi ông biết cách để làm giao kèo thêm thú vị.