Kỳ thi tuyển sinh THPT đang diễn ra những ngày gần đây đang trở thành một tâm điểm xã hội không chỉ với người trong cuộc (Học sinh, phụ huynh) mà còn cả toàn thể hệ thống truyền thông đại chúng. Những bài viết về điểm chuẩn, về tỷ lệ chọi, về áp lực hữu hình – vô hình đè nặng lên vai thí sinh và gia đình liên tục xuất hiện trên mạng.
Bên lề, chúng ta cũng thấy những bài viết ở 1 góc nhìn khác là tại sao phải khiến cho cuộc thi vào cấp 3 của học sinh trở nên khó khăn đến nhường vậy, tại sao phải đánh giá kết quả và tương lai của học sinh đã qua 09 năm học tập bằng vài giờ làm bài thi?
Chúng ta có thể hiểu rằng kỳ thi THPT không quyết định tương lai của học sinh khi vào công lập hay tư thục nhưng điều quan trọng là tại sao xã hội vẫn cho rằng chỉ có 1 con đường là đi học lên cấp cao hơn mới có thể xây dựng được một tương lai vững chắc cho các em. Điều này bắt nguồn từ một tư tưởng đậm chất Á Đông, là tàn dư của một xã hội phong kiến từ thời kỳ quân chủ chuyên chế vẫn còn ảnh hưởng đến tâm lý đám đông đến nay. Đó là tư tưởng Tứ Dân!
Tứ dân bao gồm “Sĩ – Nông – Công – Thương”
Sĩ được xếp là giai cấp đầu tiên, được xã hội trọng vọng. Sĩ là từ để chỉ tầng lớp trí thức, những người có học có hiểu biết về chữ nghĩa (thầy đồ, thầy thuốc, quan lại, học trò). Tầng lớp này nhìn chung có cuộc sống nhàn nhã, suốt ngày chăm chỉ đọc sách thánh hiền, làm văn, ngâm thơ. Những con người bình dân muốn thay đổi cuộc sống gần như chỉ có con đường duy nhất là học và thi khoa cử. Trong gia đình kẻ sĩ, người vợ phải tần tảo sớm hôm lo việc đồng áng, canh cửi để nuôi chồng. Nếu chồng thi đậu khoa cử, người vợ sẽ trở thành bà thám, bà bảng hay là mợ cử, mợ tú. Nếu chồng thi trượt, người vợ vẫn có thể hãnh diện với danh vợ thầy đồ làng hay là vợ tú tài. Các kỳ khi Hương, thi Hội, thi Đình (gọi chung là Khoa bảng) cũng được tổ chức để chọn người học giỏi ra làm quan giúp triều đình hoặc nếu không muốn làm quan thì có thể làm thầy đồ, thầy thuốc,… Việc tầng lớp sĩ phu gần như không tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất được xếp hàng đầu trong các tầng lớp giai cấp phản ánh tư tưởng trọng Nho giáo của người Việt trong xã hội xưa đồng thời cho thấy người Việt ta từ xưa đã có truyền thống coi trọng việc học hành, khoa cử.
Nông là chỉ những người nông dân cày ruộng, lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội xưa. Đa phần những người nông dân quanh năm suốt tháng lao động chân lấm tay bùn, vất vả sớm trưa nhưng nhiều khi không đủ ăn do những gánh nặng về thuế khoá, lao dịch hay thiên tai, mất mùa nhưng họ vẫn có cơ hội được triều đình miễn hoặc giảm thuế trong thời gian bất ổn nếu có vua sáng suốt cai trị. Tầng lớp nông cũng có sự phân hoá thành ba loại phổ biến:
Trung nông: những người có ruộng đất riêng, sở hữu công cụ sản xuất, tự làm, tự ăn, không phải đi làm thuê đồng thời cũng không tham gia bóc lột.Bần nông: những người chỉ sở hữu ít ruộng đất, phải đi canh tác thêm trên ruộng đất của địa chủ, phải thuê mướn trâu bò và nông cụ sản xuất.Cố nông: là những người nghèo khổ nhất tầng lớp nông dân và có thể nói là cả xã hội, không có ruộng đất cũng như công cụ sản xuất, họ sử dụng sức lao động đi làm thuê cho chủ để kiếm ăn.
Ngoài ra còn có loại thứ tư là Phú Nông nhưng hiếm, họ là những người sở hữu rất nhiều ruộng đất và công cụ sản xuất. Phú nông có bóc lột nhân công và nợ lãi nhưng vẫn tham gia lao động sản xuất là chủ yếu nên vẫn thuộc giai cấp nông dân trong khi địa chủ, cường hào là những người gần như không lao động sản xuất mà chỉ biết bóc lột người khác.
Nông là bộ phận đông đảo và quan trọng nhất của xã hội Việt Nam xưa, họ là lực lượng lao động và sản xuất chính nuôi sống toàn bộ xã hội và tham gia vào vào quân đội để bảo vệ Tổ quốc (thông qua chính sách Ngụ binh ư nông), nhưng đồng thời cũng là tầng lớp bị áp bức nhiều nhất.
Công là chỉ những người làm thủ công nghiệp, làm thuê trong các làng nghề truyền thống như dệt, chạm bạc, khâu nón, làm tranh… Họ được xếp vào hàng thứ ba trong tứ dân bởi quy mô nhỏ, số lượng ít do thực tế trong xã hội nước ta thời xưa chỉ tồn tại những làng nghề thủ công ở uy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp của làng xã. Ở thành thị những người thợ này tập hợp thành những “phường” để bảo vệ và giúp đỡ lẫn nhau, còn ở nông thôn những thợ thủ công phần nhiều vẫn là những người nông dân, họ tranh thủ làm thêm để cải thiện cuộc sống những lúc nông nhàn.[5] Tuy nhiên đôi lúc những người thợ thủ công cũng được mời vào kinh thành để làm một số việc trong triều đình như may áo mũ dành cho vua quan, đúc tiền riêng của triều đình,…
Thương là những người hoạt động buôn bán, vai trò của họ bị đặt ở hàng thấp nhất trong xã hội xuất phát từ thực tế nền kinh tế tự cung tự cấp và tính tự trị của làng xã gần như không có nhu cầu trao đổi hàng hoá ra khỏi phạm vi cư trú, những người hành nghề buôn bán do đó phải năng động, sòng phẳng, thậm chí gian lận mới có lãi. “Buôn gian bán lận” đã trở thành cụm từ phổ biến cho tới tận ngày nay, đó là điều mà một xã hội thuần nông coi trọng lễ nghĩa không muốn chấp nhận. Trong quan niệm, người Việt ta xưa cho rằng nghề kinh doanh chỉ là buôn nước bọt, mua chỗ này rẻ rồi bán chỗ kia đắt, ăn chênh lệnh, không làm ra của cải vật chất, sản phẩm tinh thần cho xã hội. Tuy nghề thương không được quá coi trọng nhưng cũng không thể không duy trì.
Bất chấp Việt Nam đã mở cửa hội nhập Thế giới từ lâu và độ mở còn rất cao (xuất nhập khẩu hàng hóa/GDP đạt gần 200% GDP – 2020), tư tưởng Tứ Dân vẫn là cái bóng mờ của xa xưa, ám ảnh lên tâm thức của một lượng lớn người dân Việt Nam. Các em học sinh đang ở độ tuổi còn trẻ, kiến thức xã hội và tâm lý còn non nớt, nên đôi khi vẫn chỉ biết nghe theo người lớn trong nhà, những người mà kiến thức và tư tưởng có phần thụt lại sau khá xa sự phát triển của thời đại. Sĩ phu ngày xưa rất được trọng vọng thì thời nay (chú trọng vào kết quả) sẽ khó có thể nhận được sự công nhận của xã hội khi chỉ chạy theo bằng cấp và danh hiệu. Nhà Nông thì ngày xưa chỉ xếp sau giới Sĩ phu nhưng với sự phát triển khoa học kỹ thuật, nền nông nghiệp đã dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào thời tiết và sức lao động của nông dân hơn (chí ít là các khu nông nghiệp được đầu tư bài bản). Kết quả của những thay đổi đó là sự dư thừa lương thực, cũng là yếu tố khiến việc lựa chọn nghề nông trở nên suy yếu với các thế hệ tương lai. Giới Công – Thương nghiệp trong thời kỳ hội nhập hiện nay đã có phần vượt lên và ngang hàng (trong một số khu vực đã vượt hơn) với giới Sĩ phu trong sự đóng góp cho xã hội. Có thể nói trong thời đại mới và tịnh tiến dần đến tương lai, tất cả các tầng lớp xã hội, không chỉ bao gồm Tứ Dân đều phải cố gắng trau dồi kiến thức, đạo đức, tư tưởng và rèn luyện bản thân thì giá trị của họ đều sẽ được xã hội công nhận. Khi đó, kỳ thi THPT sẽ không còn là một áp lực cho cả học sinh và phụ huynh cả nước mà đơn giản trở thành một cánh cửa mở ra cho những người đã có sẵn định hướng sẽ xây dựng tương lai của bản thân và xã hội qua con đường Sĩ Phu!
Hiếu Nguyễn
13/07/2022.
Nguồn: