Minh mít là anh họ tôi, hai đứa cùng khôn lớn trong một con ngõ điển hình của đất Thủ đô. Minh mít là người mà lúc đó tôi thích ở bên hơn cả; những ngày thơ ấu cùng cậu ta thi thoảng vẫn ánh lên ở một góc trong tâm hồn, làm dịu đi cái quạnh hiu nhức nhối của đời tôi.
Theo đánh giá của tôi, Minh mít được mọi người yêu quý hơn. Cậu ta trắng trẻo, xinh xắn; nụ cười hồn hậu và có tính lây lan, như một nét vui tươi điểm lên bức tranh cuộc sống cậu ta vẽ, hồn nhiên, trong trẻo, vô ưu.
Tôi thầm ghen tị với Minh mít vì nhiều lẽ. Chẳng là lúc nào cậu ta cũng được sắm sửa nhiều hơn tôi, từ quần áo, giày dép cho đến đồ chơi. Chắc chỉ có đến lúc chết tôi mới quên được cái cảm giác thèm muốn hũ đựng tiền tiết kiệm mà hắn được sắm cho. Đó là năm 2003, con trâu vàng Sea Games hăm mươi hai mới đẹp làm sao, cổ đeo huy chương vàng sáng choang, một chân nó quỳ xuống, hai tay (chân) nó giơ lên và rạng rỡ như tán dương cái nhà vô địch mà chắn chắn không phải là tôi. Rằng Minh mít (trớ trêu thay tôi cũng) là một trang Đinh Sửu chính hiệu, thì coi vẻ kỉ niệm cái dịp thể thao trọng đại của nước nhà, tôn vinh biểu tượng con trâu thân thương cũng là hợp lẽ lắm.
Cái tính tình dễ chịu, lém lỉnh của Minh mít được bọn trẻ con yêu thích hơn cả. Tôi nghĩ rằng bất cứ sinh vật nào được định nghĩa là trẻ em thì sẽ đều cuốn lấy cậu ta như một đám đông hiếu kì vây quanh nhà ảo thuật tài ba. Trông cái cách cậu ta ân cần mà dí dỏm chơi với tụi nhỏ hay làm tôi xúc động, tôi nghĩ về những niềm vui lớn lao ta cất công hoài đi tìm kiếm, mà đôi lúc quên đi những thứ ngọt ngào bé nhỏ chân sơ của cái hân hoan con trẻ trong mình, tất nhiên ý tôi cũng là cần phải có một người như Minh Mít.
Tôi thường ngồi xem cậu ta chơi với cháu Minh Đăng, con của chị tôi. Thi thoảng cu cậu sẽ bật cười khanh khách, tiếng cười vang lên mà tôi tưởng miếng kẹo lạc cũng chỉ giòn tan đến thế, và không khỏi kì khôi nghĩ rằng bác Minh của Minh Đăng cũng làm cho cậu nó cười in hệt như thế ấy.
Giờ đây Minh mít đã làm bố, bố của cháu tôi. Liệu tôi có làm cho cậu bé con yêu mến tôi và có niềm vui thích thú như thế được không? Ở nơi vạn đường xa cách, chim nhạn vắng tanh, tôi chỉ biết trao gửi về con ngõ nhỏ ấy cái nhìn khắc khoải và một tấm chân tình có thực.
Đó là chân trời cũ của tôi, là máu mủ chảy trong huyết quản, là từng tiếng tim, nhịp thở; là từng hạt cơm, từng mảnh kí ức, cảm xúc đượm vui buồn đã đắp tạc lên con người tôi, lên những văn chương tư tưởng, và cái chí nguyện giang hồ.
Tôi đã rời tổ chim ấy mà đi, để phiêu lưu và đuổi theo những vùng trời mới. Tôi không còn được dẫn lối bởi sự chở che gia đình, bởi tiếp nối cha ông tiên tổ, mà bởi khát khao vụng dại của tuổi trẻ, những lí tưởng âm thầm và dữ dội.
Tôi ra đi, gói vào hành trang cái kỉ niệm thân thương về hai chú chim đầu tiên và cũng là duy nhất của hai chúng tôi. Một buổi sáng mùa hè khi tôi học hết lớp 4, Minh mít học hết lớp 3; hai chú chim chào mào, sau này chúng tôi đặt tên là Tửu và Mò Tôm, đã đến với hai anh em, hay đúng hơn là chúng tôi tình cờ bắt được tổ chim có chim mẹ và hai chim non trên cây bưởi trong sân nhà.
Ai có thể tả cho thấu được niềm sướng rơn của hai đứa trẻ con thành phố, cái suy nghĩ sung sướng đến run người của việc nuôi những chú chim chào mào xinh đẹp có bộ lông đen nhánh, cái bộ ngực trắng tinh óng ả ưỡn lên khi cất tiếng hót, hai má điểm đỏ và chiếc mào dựng đứng trên đầu như một lời tuyên bố kiêu hãnh về cái đẹp phong lưu, hào sảng. Chúng tôi tự nhủ sẽ chăm sóc những chú chim sao cho chúng được làm những con vật viên mãn nhất trên trần, hay ít nhất là so với loài của chúng.
Nhưng chào mào là giống chim hoang, ngang tàng; sau khi bị bắt, con chim mẹ đã tự cắn lưỡi mà chết. Hai đứa lặng đi, tôi mếu máo với Minh mít “Hu hu, nào chúng mình có biết đâu, hu hu”. Cậu ta an ủi tôi, cả hai thống nhất sẽ bù đắp bằng việc thay chim mẹ nuôi dưỡng hai con chim non thật chu đáo. Mùa hè năm ấy, niềm tin sụp đổ, hai đứa nhóc học bài học đầu đời về tình yêu không vị kỉ, có khi những điều đẹp đẽ sẽ chết rụi khi chúng ta cố giữ chặt chúng ở bên mình.
Vậy là hai đứa bước vào công cuộc săn sóc hai người bạn mới, chúng rất háu ăn và lớn nhanh như thổi. Những ai đã từng cho chim non ăn sẽ hiểu được cái niềm thanh thú lay động của việc này, chiếc mỏ bé tin hin cùng tiếng kêu chiếp chiếp làm những sinh vật đó trở nên mong manh, bé nhỏ, cầu mong sự che chở và đáng yêu vô cùng. Đáng yêu quá, chúng tôi nhìn chúng âu yếm mà chắc Đức Mẹ Đồng Trinh Maria cũng chỉ nhìn Chúa Hài Đồng nhân từ đến thế.
Lòng nhiệt thành ngây dại và hai trái tim bé bỏng không chuẩn bị cho chúng tôi ngày ly biệt. Tửu bị ai bắt trộm mất, về sau chúng tôi đồ rằng thủ phạm chính là một thằng hàng xóm nhà kế bên, đứa mà mấy năm về trước đã choảng một viên gạch vô đầu tôi, và là người đầu tiên cho tôi biết cái đơn giản mà cũng hồn nhiên manh động của thơ trẻ.
Mò Tôm mất bạn, thành thử ra buồn chán và bỏ ăn bỏ uống, không lâu sau cũng ra đi. Chỉ còn hai anh em tôi, bàng hoàng, tê tái. Chúng tôi chôn cất Mò Tôm bên cạnh mẹ của nó ở dưới gốc cây bưởi, dựng một bia mộ nhỏ từ mảnh chậu cây lục bình, ghi lại ngày của những niềm vui trong trẻo vụn vỡ mà chúng tôi níu giữ mùa hè năm đó
“ngày 24 tháng 7 năm 2007
Vô cùng tiếc thương chim chào mào Mò Tôm và chim chào mào mẹ”.
Thế ấy, Minh mít là người bạn đầu tiên và cũng là sau cuối trong cuốn phim tuổi thơ của tôi, nay tôi phủi bụi mà ngậm ngùi xem lại. Mười mấy năm thổi qua như một thoáng gió, những bóng vẻ dáng hình cũ có còn mãi đậm sâu, hay cũng sẽ phai mờ đi theo cái bụi của đời. Trong cái cảnh bôn ba chân trời góc bể nơi thế giới, tôi lại càng thấm thía hơn sợi dây liên kết mập mờ nhưng bền chặt, giữ tôi lại như con thuyền lạc lối lênh đênh trên trùng dương sóng cả, vẫn tìm được bến đỗ neo bờ.
Cảm ơn các bạn đã đọc.
Bài viết này nằm trong một series tôi sẽ viết trên trang Điều còn mãi trên Facebook, tôi dẫn nguồn ở đây, rất mong các bạn đón đọc và ủng hộ.