An tử - Nên hay không?
Quyền An tử - chắc có lẽ bạn đã từng nghe qua ít nhất là một lần về nó, nó là một quyền tốt của con người hay là một quyền xấu, tại sao Việt Nam vẫn chưa có quy định về nó,...
An tử theo Từ điển Merriam-Webster là “hành động hoặc thực hành giết chết hoặc cho phép cái chết của những cá nhân (như con người hoặc động vật nuôi) bị ốm hoặc chấn thương không còn hy vọng (cứu chữa) theo cách ít đau đớn nhất vì lý do nhân từ/nhân đạo” hay trong một từ điển khác lý giải rằng “an tử là sự giết chết có chủ ý một người lệ thuộc (“a dependent human being”) bởi hành động hoặc không hành động vì lợi ích được viện ra của người đó”. Hiểu nôm na rằng An tử là việc chủ ý chấm dứt cuộc sống của một người mà thường là những bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa theo cách ít hoặc không đau đớn vì những lợi ích của người đó.
Vậy An tử tốt hay xấu? nên hay không nên? Đó vẫn là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong đó, những người ủng hộ cho rằng ở xã hội văn minh hiện nay, mọi người đều nên được lựa chọn khi nào họ sẵn sàng để chết và nên được giúp đỡ nếu không thể tự chấm dứt cuộc sống của mình. Tuy nhiên, những người phản đối đưa ra quan điểm lập luận về đạo đức chống lại việc được chết êm ái và trợ tử, cho rằng mạng sống là do Chúa Trời ban cho con người và và chỉ có Chúa Trời mới có thể lấy đi. Một số người khác lại lo ngại luật An tử cho phép chết không đau đớn một khi được ban hành có thể bị lạm dụng và những người không muốn chết có thể bị giết.
Trên thế giới hiện nay, một số quốc gia đã cho phép áp dụng An tử tuy nhiên đều có những điều kiện rất nghiêm ngặt, điển hình:
Thuỵ Sĩ thường là quốc gia đầu tiên được nhắc tới khi đề cập đến việc trợ tử. Nước này cho phép công dân ra đi với sự hỗ trợ của bác sĩ mà không yêu cầu về độ tuổi tối thiểu, kết quả chẩn đoán hay triệu chứng. Tuy nhiên, việc trợ tử bị xem là bất hợp pháp nếu động cơ là "tư lợi cá nhân", ví dụ giúp ai đó chết để được thừa kế sớm hơn, hoặc không muốn mang gánh nặng vì chăm sóc người bệnh.
Ở Hà Lan, hành động chết không đau đớn và hỗ trợ tự tử đều là hợp pháp, trong trường hợp một người đang đau đớn quá sức chịu đựng và không có cơ hội để cải thiện tình hình. Trẻ em từ 12 tuổi trở lên có thể yêu cầu hỗ trợ chết, nhưng trẻ dưới 16 tuổi cần có sự đồng thuận từ cha mẹ. Theo báo cáo của Uỷ ban An tử Khu vực 2017 (RTE), tại Hà Lan có 6.585 trường hợp chết tự nguyện không đau đớn hoặc trợ tử, chiếm 4,4% trong tổng số ca tử vong tại đây. Khoảng 96% là chết không đau đớn, phần lớn liên quan đến những bệnh nhân ung thư.
Nhiều bang của Mỹ cho trợ tử hợp pháp. Oregon, Washington, Vermont, California, Colorado, thủ đô Washington, Hawaii, New Jersey, Maine và Montana đều có luật hoặc phán quyết toà án cho phép tự tử dưới sự hỗ trợ của bác sĩ với các bệnh nhân nan y. Các bác sĩ có thể kê đơn các loại thuốc tự tử cho bệnh nhân, nhưng chuyên gia y tế phải có mặt khi họ sử dụng thuốc. Tất cả các bang trên yêu cầu thời hạn chờ đợi là 15 ngày giữa hai lần kiến nghị bằng miệng, 2 ngày giữa lần cuối cùng kiến nghị bằng văn bản và hoàn thành đơn thuốc.
Còn ở Việt Nam thì sao?
Ở Việt Nam, quyền An tử (hay quyền được chết) đã được đề cập từ khoảng 10 năm nay, vì thế không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Năm 2004, trong quá trình dự thảo sửa đổi Bộ luật dân sự năm 1995, Quốc hội đã có một buổi thảo luận vể những ý kiến đề xuất mới trong luật, trong đó có quyền an tử. Năm 2013, trong quá trình dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), quyền an tử cũng được đề cập nhưng được cho là vấn đề mới nên cần được tiếp tục nghiên cứu. Trong quá trình dự thảo sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005, vấn đề quyền an tử lại được bàn luận sôi nổi từ nhiều góc độ (luật học, y học, văn hóa,...) và từ nhiều phía (bác sĩ, bệnh nhân, luật sư,...), tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về chủ đề này ở Việt Nam vẫn còn ít.
Một câu hỏi đang được đặt ra đó là về khả năng luật hóa quyền An tử ở Việt Nam. Trong lĩnh vực pháp luật nói chung, pháp luật về nhân quyền (ở các quốc gia) nói riêng, việc hợp pháp hóa một quyền thường diễn ra theo con đường là nhận thức của công chúng về quyền dần thay đổi và bắt đầu tác động đến chính quyền để công nhận quyền đó. Theo người viết, hợp pháp hóa quyền an tử cũng như một số quyền mới xuất hiện ở Việt Nam (ví dụ: quyền kết hôn của người đồng giới) cũng sẽ diễn ra theo con đường này. Hiện nay, quyển an tử là một vấn để còn chưa được bàn luận nhiều ở Việt Nam, nhận thức của công chúng về vấn để này chưa phổ biến và đầy đủ; cùng với nhiều yếu tố xã hội khác tác động như truyền thống vãn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ lập pháp,... nên khả năng công nhận quyền an tử khó xảy ra.
Về vấn đề trên, trong nghiên cứu của mình, một tác giả đã nêu ra 5 điều kiện để một quốc gia có thể ban hành luật về an tử đó là:
(i) Số lượng bệnh nhân giai đoạn cuối, mắc bệnh vô phương cứu chữa xin được chết lớn; giới bác sĩ tồn tại nhiều bức xúc về vấn đề này;
(ii) Quốc gia có hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ, nghiêm minh; kỹ thuật lập pháp của quốc gia đó đủ để có thể xây dựng luật ít bị lạm dụng nhất;
(iii) Nguời dân quốc gia đó có ý thức tuân thủ pháp luật cao;
(iv) Tại thời điểm muốn ban hành luật về an tử không có quá nhiều người của quốc gia đó phản đối (thông qua thăm dò dư luận);
(v) Quyền an tử cần được ghi nhận trong các đạo luật gốc với tư cách là quyền nhân thân, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng luật chuyên ngành (luật về an tử).
Đối chiếu với các điều kiện trên, Việt Nam có lẽ chỉ thỏa mãn điều kiện thứ nhất về nhu cầu xã hội, tuy nhiên hiện vẫn chưa có những điều tra và số liệu thông kê cụ thể. Các điều kiện còn lại Việt Nam hầu như chưa đáp ứng được. Nói cách khác, để luật hóa quyền an tử ỏ Việt Nam, cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Như vậy, với cách tiếp cận khoa học và thận trọng thì thời điểm hiện nay chưa thực sự phù hợp, tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không có khả năng hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam. Như đã trình bày ở trên, xu hướng cho thấy an tử đang ngày càng được nhiều quốc gia thừa nhận hơn, trong khi cũng như ở các nước khác, nhu cầu về an tử ở Việt Nam là có thật. Bởi vậy, có thể trong một vài năm tới, an tử lại tiếp tục được đặt ra như một vấn đề xã hội bức xúc, từ đó dẫn tới việc luật hóa quyền an tử ở Việt Nam. Để chuẩn bị cho bối cảnh ấy, việc cần làm hiện nay là tiếp tục nghiên cứu sâu về vấn đề an tử, cả trên phương diện luật học, xã hội học, tâm lý học và đạo đức. Thêm vào đó, cần phổ biến thông tin về vấn đề cho công chúng và nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia đã và chuẩn bị hợp pháp hóa an tử.

Quan điểm - Tranh luận
/quan-diem-tranh-luan
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
Hãy là người đầu tiên bình luận bài viết này