Ngược dòng lịch sử cho đến khoảng mười năm về trước, 4-4-2 là một đội hình định nghĩa Premier League. Đó là đội hình nổi tiếng giúp Liverpool chinh phục những danh hiệu trong những năm 1970 và 1980, cú ăn ba của Manchester United với Alex Ferguson năm 1999. Sau này là mùa giải bất bại 2003-2004 của Arsenal. Với bốn hậu vệ đóng vai trò như một bức tường, hai tiền vệ trung tâm hoạt động không mệt mỏi trên sân, hai tiền vệ cánh tốc độ với khả năng tạt bóng chính xác và quan trọng nhất là hai tiền đạo phía trước gây ra sự tàn phá.

Tuy nhiên, thời điểm Jose Mourinho đến Premier League quan điểm này đã được thay đổi. Didier Drogba đóng một vai trò rất lớn trong sự thay đổi tư duy này. Một cầu thủ mục tiêu ở phía trên, người không chỉ có thể cầm bóng và chờ hỗ trợ các đồng đội mà còn có thể bắt nạt hàng phòng ngự đối phương theo cách mà hai tiền đạo có thể làm.
Bất chấp việc Mourinho đã chứng minh rằng có những sơ đồ chiến thuật khác ngoài 4-4-2 vẫn có thể thành công ở bóng đá Anh. Thời điểm đó rất ít huấn luyện viên sẵn sàng rời bỏ đội hình được cho là 'đã thử và đã được kiểm chứng’ của họ. Phải mất một thời gian cùng những thất bại bẽ bàng của các câu lạc bộ Anh và đội tuyển quốc gia. Cuối cùng, đa số bắt đầu chấp nhận cuộc cách mạng chiến thuật  vốn đang quét khắp châu Âu để rồi đưa ra những điều chỉnh phù hợp.

Ví dụ đáng chú ý nhất về thất bại của 4-4-2 trong bóng đá Anh là đội hình được HLV Fabio Capello sử dụng tại World Cup 2010. Hệ thống này đã bị nhiều người lên án là 'lỗi thời' trước khi giải đấu diễn ra và cho rằng nó không có lợi cho Anh trong trận đấu với đối thủ Đức. Kết quả là họ bị loại với tỷ số 4-1 tại vòng 16 đội trước một Đức với đội hình 4-2-3-1 hiện đại. Đây được cho là thời điểm đen tối của hệ thống 4/4/2 tại Anh.
Vậy đâu là điểm yếu của 4-4-2? Và điều gì khiến cho nó trở thành đội hình phổ biến nhất trong bóng đá? Liệu rằng 4-4-2 sẽ dần trở nên lỗi thời trong tương lai?
Trong lịch sử bóng đá, thời gian là chiếc đồng hồ không có số và các hệ thống chơi không có ngày xác định-  không ai thực sự biết khi nào chúng được sinh ra hay chết đi. Năm 1970, Brazil vô địch World Cup lần thứ ba, sử dụng  đội hình 4-2-4, nhưng thậm chí trước đó các CLB vốn đã sử dụng hệ thống được cho là tiền thân của 4-4-2. Ví dụ như đội hình tuyển Anh vô địch World Cup năm 1966, Glasgow Celtic đã vô địch châu Âu cúp các lạc bộ vào năm 1967. Và sau đó đội hình vĩ đại của Ajax Amsterdam vào đầu những năm 1970 với "bóng đá tổng lực", tất cả đều sử dụng phiên bản của đội hình này.

Ý tưởng đằng sau của 4/4/2 là gì?

Bằng cách rút hai tiền đạo rộng về vị trí tiền vệ. Ý tưởng chính của đội hình này là mang lại sự gắn kết trong phòng ngự của cả đội. Điều này có được nhờ hàng tiền vệ 4 người linh hoạt. Nghĩa là đội sẽ vượt qua đối thủ về số lượng người hàng tiền vệ, mang đến một số lợi thế sau:
- 4 so với 2 ở hàng tiền vệ có nghĩa là dễ dàng hơn để chiếm quyền sở hữu.
- Nó cung cấp một đơn vị phòng ngự ổn định hơn, một tiền đạo cánh của đối phương giờ đây sẽ phải đối mặt với hai người phòng thủ thay vì một.
- Sự linh động cũng điều đáng nói khi các tiền vệ có thể dâng hoặc lùi tùy theo tình huống.

4 tiền vệ có thực sự là lợi thế lớn của 4-4-2 giúp cho các đội bóng kiểm soát khu vực giữa sân tốt hơn không? 

Cũng như bất kỳ đội hình nào khác, 4-4-2 có những điểm yếu của nó. Giai đoạn 2004-2006, hệ thống 4-3-3 của Chelsea đã hoạt động xuất sắc dưới thời của Mourinho trong khi hầu hết các đội bóng Anh vẫn cố định với 4-4-2.
Mourinho trong một lần phỏng vấn ông đã nói:

Hãy nhìn xem, nếu tôi có một tam giác ở hàng tiền vệ - Với Claude Makelele phía sau và hai tiền vệ khác ở ngay phía trước - tôi sẽ luôn có lợi thế trước sơ đồ 4-4-2 thuần túy, nơi mà các tiền vệ trung tâm ở cạnh nhau. Đó là bởi vì tôi sẽ luôn có thêm một người ở trung tâm, đó là Makelele. Nếu không bị gây áp lực bởi bất cứ ai, anh ấy có thời gian và có thể quan sát toàn bộ sân. Nếu anh ta bị theo kèm, điều đó có nghĩa là một trong hai tiền vệ trung tâm còn lại đang được tự do. Nếu cả 3 đều bị khóa chặt vì các cầu thủ chạy cánh của đối phương di chuyển vào trong để trợ giúp, nghĩa là bây giờ có khoảng trống cho chúng tôi ở bên cánh, cho các tiền đạo cánh của chúng tôi hoặc cho các hậu vệ biên. Chẳng có gì mà 4-4-2 thuần túy có thể làm để ngăn những điều này" .
Một cách khác để khai thác điểm yếu của 4-4-2 là vấn đề ở khoảng trống giữa các tuyến. Như trong bức ảnh này, khoảng trống giữa hàng công và hàng tiền vệ, giữa hàng tiền vệ và hàng thủ là rất lớn.

Giữa 2 tuyến hậu vệ và tiền vệ tồn tại các pockets of space( hay còn được gọi là các túi không gian). Các túi không gian có thể bị đối phương khai thác bằng cách đặt một hoặc một số cầu thủ đứng giữa hàng tiền vệ và hàng thủ. Đó có thể là một cầu thủ số 10 hay một tiền đạo lùi thấp, hay thậm chí là các tiền vệ công. 
Túi không gian.
Đó là một trong số những cách hữu hiệu thường được các đội bóng sử dụng khi họ đối mặt với 4-4-2.

Những điều trên có cản trở cho sự phát triển của 4-4-2 trong bóng đá hiện đại và trong tương lai?

Đội hình thần thánh giúp Leister City vô địch ngoại hạng anh hay khối Blocks nổi tiếng của HLV Simeone tại Atletico Madrid là những cái tên điểm nhanh đã và đang thành công với 4-4-2. Cùng là một sơ đồ chiến thuật nhưng cách vận hành của mỗi câu lạc bộ là khác nhau. Dẫu vậy bản thân đội hình này vẫn luôn tồn tại những thế mạnh riêng.
Trong một video được Fifa đăng tải năm 2012. HLV Arsene Wenger đã giải thích một trong những lý do 4-4-2 là đội hình tốt nhất.

60% cầu thủ trong đội của bạn gồm: 2 trung vệ, 2 tiền vệ trung tâm và 2 tiền đạo bao phủ một cách tự nhiên 60% bề mặt sân. 40% còn lại được che phủ bởi 2 cầu thủ rộng mỗi bên. Có nghĩa là về mặt toán học đây là hệ thống phù hợp nhất để bao phủ một cách hợp lý bề mặt của một sân bóng.

Đội hình mà HLV Arsene Wenger sử dụng trong phần lớn sự nghiệp ở Arsenal và đặc biệt trong những năm đầu thành công nhất của ông là 4-4-2. Cho đến nay đâu là mùa giải Premier League vĩ đại nhất vẫn còn là một câu hỏi tranh cãi, nhưng đội hình của Arsenal trong mùa giải 2003-04 sẽ luôn khác biệt so với phần còn lại với tư cách là 'Những kẻ bất khả chiến bại'.


Một trong những ưu điểm tiếp theo của đội hình này là mỗi cầu thủ đều được được liên kết tới 1 người khác, qua đó tạo ra các cặp trên sân. Đây là một cách tiếp cận trận đấu đơn giản nhưng lại vô cùng hiệu quả giúp cho 4-4-2 dễ dàng được đón nhận và trở nên phổ biến như vậy.

Kết.

Bất kỳ đội hình chiến thuật nào cũng tồn tại những điểm mạnh yếu riêng. Tính dễ tiếp cận mà hiệu quả, cùng với khả năng sáng tạo nhờ sự linh hoạt các vị trí trên sân, 442 chắc chắn sẽ tiếp tục đồng hành và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bóng đá.
Bài viết đồng thời đã được chuyển thể dưới dạng video tại: 
Nguồn tham khảo: