Mở đầu

Kể từ khi bước vào kỷ nguyên hạt nhân, nhân loại đã luôn phải sống trong một nỗi sợ mơ hồ với ngành khoa học này. Đây là một con dao hai lưỡi thực sự; khi một mặt nó giúp thúc đẩy việc phát triển năng lượng hạt nhân để phục vụ đời sống cho con người, nhưng đồng thời nó cũng là nền tảng để các loại vũ khí hạt nhân ra đời. Những vũ khí có sức hủy diệt kinh hoàng này là thước đo cho sức mạnh các cường quốc; nhưng bên cạnh đó, tự bản thân ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân đã tiềm ẩn nhiều rủi ro và nguy hiểm chứ chưa cần đến sự có mặt của các loại vũ khí. Trong lịch sử của ngành công nghiệp này, không thiếu những tai nạn và thảm họa xảy ra; ảnh hưởng rất lớn tới nhân loại trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Vì vậy, hãy cùng nhìn lại một trong những thảm họa hạt nhân nghiêm trọng nhất lịch sử loài người - thảm họa Chernobyl, để hiểu thêm về những mối nguy tiềm của ngành công nghiệp này.

Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl

Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl nằm cách khoảng 16,5km về phía tây bắc của thành phố Chernobyl; cách biên giới giữa Ukraine và Belarus khoảng 16km; và cách thủ đô Kiev 100km về phía bắc. Chernobyl là một nhà máy điện với hệ thống 4 lò phản ứng RBMK - tức là “lò phản ứng hạt nhân kiểu kênh công suất lớn”. Công nghệ lò RBMK được phát triển từ những năm 1950, là kiểu lò phản ứng hạt nhân với 1 hệ thống đường dẫn nước vào thẳng vùng phản ứng; nước được đun nóng, sôi, và bốc hơi, quá nhiệt ngay trên các thanh nhiên liệu. Chính vì chỉ có 1 vòng tuần hoàn nước nên hiệu suất của lò rất cao. Ở các thế hệ lò tiếp theo, các lò thường dùng 2 tới 3 vòng tuần hoàn. Chính vì nước được sôi ngay trên thanh nhiên liệu, nên loại lò này có rất nhiều khuyết điểm.
Tại nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, mỗi lò có thể sản xuất ra 1 GW điện; và ước tính khoảng 10% lượng điện của Ukraine được sản xuất bởi Chernobyl vào thời điểm năm 1986. Lò phản ứng số 1 - tức lò đầu tiên của nhà máy - được xây dựng vào năm 1977. Các lò phản ứng kế tiếp lần lượt được xây dựng vào các năm 1978, 1981 và 1983. Chernobyl cũng là nhà máy điện hạt nhân sử dụng hệ thống lò RBMK thứ 3 trên lãnh thổ Liên bang Xô Viết lúc đó. Hai nhà máy trước đó là Stalingrad và Kursk - đều nằm trên lãnh thổ nước Nga.
Nằm cách không xa nhà máy điện hạt nhân Chernobyl là Pripyat - một thành phố nhỏ với dân số khoảng hơn 50 ngàn người. Pripyat được thành lập vào năm 1970, với mục đích chính là cung cấp nơi ở cho các nhân viên của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl cùng gia đình của họ. Ban đầu, nhà máy điện nguyên tử dự kiến xây cách thủ đô Kiev chỉ chừng 25km nhưng Viện hàn lâm khoa học Ukraine đã nêu lên các lo ngại về việc vị trí này quá gần thành phố. Bởi vậy, vị trí xây dựng nhà máy mới được dời đến địa điểm như hiện nay. Sau thảm họa hạt nhân Chernobyl năm 1986, toàn bộ Pripyat bị bỏ hoang; dân chúng ở đó được di tản và tái định cư tới Slavutych.
Vị trí của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl
Vị trí của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl
Về phía nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, trong suốt những năm hoạt động trước thời điểm thảm họa năm 1986, các lò phản ứng cũng nhiều lần gặp phải sự cố. Vào năm 1982, một sự cố tương đối nghiêm trọng đã xảy ra với lò phản ứng số 1, khi van làm mát bị lỗi và vẫn đóng sau khi bảo trì. Khi lò phản ứng hoạt động, lõi uranium trở nên quá tải nhiệt và bị nóng chảy. Mức độ thiệt hại tương đối nhỏ và không có ai thiệt mạng trong vụ tai nạn. Tuy nhiên, do sơ suất của những người vận hành, mãi đến mấy tiếng sau vụ tai nạn mới được phát hiện, sau khi các mảnh oxit uranium và một số đồng vị phóng xạ khác thoát ra cùng hơi nước từ lò phản ứng qua ngăn thông gió. Vụ tai nạn này không được công khai mãi cho đến sau này, và 8 tháng sau lò phản ứng số 1 quay lại hoạt động bình thường sau khi được tu sửa.
Đến năm 1984, đến lượt các lò phản ứng số 3 và 4 gặp sự cố. Theo một số tài liệu từ KGB mới được công bố, thì tuy chi tiết về tai nạn không được nói rõ, nhưng trong bản báo cáo gửi đến Trung tướng Banduristy (Chỉ huy cơ quan KGB), đã nhắc tới “tình trạng khẩn cấp ở các lò phản ứng số 3 và 4” tại Chernobyl. Theo đó, dường như các bộ phận cả chịu lực lẫn không chịu lực trong khu vực lò phản ứng đang bị hư hỏng, nguyên nhân được cho là lớp cách nhiệt không hiệu quả. Nhân viên của nhà máy đã và đang thực hiện các biện pháp tạm thời để gia cố lại các bộ phận hư hỏng, nhưng bản báo cáo ghi rõ là cốt tủy vấn đề vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn.
Tuy gặp các sự cố như vậy, nhất là ở hai lò phản ứng mới xây dựng không lâu là lò số 3 và 4, nhưng nhà máy điện hạt nhân Chernobyl vẫn tiếp tục hoạt động bình thường. Lúc ấy các nhà cầm quyền ở Moscow đã biết đây là một trong những nhà máy điện hạt nhân nguy hiểm nhất Liên Xô. Thế nhưng bất chấp điều đó, có vẻ như đã không có một động thái rõ ràng nào được đưa ra để kiểm tra toàn bộ hệ thống các lò phản ứng ở Chernobyl để ngăn chặn những sự cố tương tự. Có lẽ đó chính là một phần nguyên nhân xảy ra thảm họa hạt nhân nghiêm trọng bậc nhất lịch sử nhân loại. Ngày nay, chúng ta gọi đó là Thảm họa Chernobyl, diễn ra ngày 26/4/1986. Thảm họa này đã gây ra cái chết của hàng ngàn người (phần lớn là gián tiếp), đồng thời ảnh hưởng cuộc sống của hàng triệu người khác, khiến một khu vực rộng hàng chục km vuông bị nhiễm xạ nghiêm trọng. Các con số ước tính rằng lượng phóng xạ phát ra từ thảm họa này lớn gấp 400 lần lượng phóng xạ từ quả bom nguyên tử được thả xuống ở Hiroshima năm 1945.
Vậy thì thảm họa này đã xảy ra như thế nào?
Nhà máy điện Chernobyl ngày nay
Nhà máy điện Chernobyl ngày nay

Diễn biến

Vào ngày 25/4/1986, lò phản ứng số 4 được dự định tạm ngừng hoạt động để bảo dưỡng. Do đó, nhân viên nhà máy muốn nhân cơ hội này để thực hiện thử nghiệm khả năng tuabin phát điện của lò vẫn cấp đủ điện cho hệ thống an toàn của lò phản ứng (đặc biệt là các máy bơm nước) trong trường hợp nhà máy bị cắt nguồn điện từ bên ngoài. Trong trường hợp mất điện toàn bộ, mỗi lò phản ứng tại Chernobyl sẽ có 3 máy phát điện dự phòng chạy bằng diesel. Thế nhưng chúng sẽ mất từ 60 - 75 giây để đạt hiệu năng cần thiết và tạo ra công suất khoảng 5,5 MW dùng để chạy máy bơm chính. Tuy nhiên, rủi ro khi xảy ra mất điện toàn bộ là những ống dẫn chất làm mát có thể bị nứt vỡ. Trong trường hợp ấy, hệ thống làm mát lõi khẩn cấp (viết tắt là ECCS) cần bơm thêm nước vào lõi lò phản ứng để thay thế lượng chất làm mát đã bay hơi. Giả thuyết được đưa ra rằng động lượng quay của tuabin hơi của lò phản ứng có thể được sử dụng để tạo ra năng lượng điện cần thiết để vận hành ECCS thông qua các máy bơm nước. Tốc độ của tuabin sẽ giảm xuống, nhưng phân tích chỉ ra rằng có thể có đủ năng lượng để cung cấp năng lượng điện chạy máy bơm làm mát trong 45 giây. 45 giây dù không đủ để vá hoàn toàn khoảng thời gian từ khi sự cố mất điện toàn bộ xảy ra đến lúc các máy phát điện khẩn cấp hoạt động hoàn toàn; nhưng là một giải pháp khả dĩ nhất có thể sử dụng lúc ấy.
Dĩ nhiên, giải pháp này vẫn cần được kiểm chứng thông qua thực tế. Tuy nhiên một vài cuộc thử nghiệm trước đó đều đem lại kết quả không mấy khả quan. Bởi vậy, nhân dịp lò phản ứng số 4 được tạm dừng hoạt động để bảo trì, một cuộc thử nghiệm nữa đã được lên kế hoạch. Tuy nhiên, dường như những người phụ trách làm quy trình thực nghiệm tại lò phản ứng số 4 đã không tính đến việc lò phản ứng RBMK-1000 có thể có những hoạt động bất thường. Vì lẽ đó, quy trình thử nghiệm đã không xét đến hết những rủi ro có thể xảy ra - nhất là khi tính đến việc bài thử nghiệm này liên quan tới hầu hết các bộ phận quan trọng của lò phản ứng. Hay nói cách khác, những người phụ trách đã xem nhẹ độ phức tạp và rủi ro của cuộc thử nghiệm. Cũng chính vì thế, những người phụ trách chỉ coi đây là một cuộc thử nghiệm về điện đơn giản, dẫn đến việc theo quy định thì chỉ cần sự chấp thuận của trưởng thiết kế tại nhà máy điện Chernobyl. Trong khi đúng ra, những cuộc thử nghiệm phức tạp liên quan đến các bộ phận quan trọng của lò phản ứng và ẩn chứa nhiều rủi ro cần phải được sự chấp thuận của Viện Nghiên cứu và Phát triển Điện lực hoặc Cơ quan quản lý an toàn hạt nhân của Liên bang Xô Viết. Nhưng như đã nói, do không đánh giá được đúng mức độ phức tạp và rủi ro của cuộc thử nghiệm, nên những người phụ trách ở nhà máy điện Chernobyl đã không thông báo và gửi yêu cầu đến các cơ quan lớn hơn.
Theo dự kiến, cuộc thử nghiệm sẽ được diễn ra vào ca sáng của ngày 25/4/1986. Các nhân viên của ca trực tiếp tham gia đã được hướng dẫn trước về những thao tác và điều kiện cần thiết để vận hành lò phản ứng trong cuộc thử nghiệm. Ngoài ra, có cả một nhóm kỹ sư có mặt nhằm thử nghiệm hệ thống điều chỉnh điện áp mới. Sau đó theo đúng kế hoạch, việc giảm dần công suất bắt đầu vào lúc 1h06 phút sáng ngày 25. Hầu hết thời gian trong ca sáng dành cho các công việc bảo trì không liên quan, còn cuộc thử nghiệm dự kiến bắt đầu vào lúc 14h15 phút. Dĩ nhiên là từ trước đó, công đoạn chuẩn bị đã được thực hiện - bao gồm cả việc ngắt hệ thống làm mát lõi khẩn cấp. Tuy nhiên, sự cố xảy ra khi một trạm điện khác trong khu vực bất ngờ ngừng hoạt động. Vì vậy nên vào khoảng 14h, lệnh từ Kiev đưa xuống thông báo rằng việc giảm công suất của Chernobyl phải ngưng lại để đảm bảo cho các nhu cầu sử dụng điện vào buổi tối. Cuộc thử nghiệm cũng vì thế phải lùi lịch.
Vào 23h04 phút ngày 25/4, lệnh từ Kiev đưa xuống cho phép việc ngắt lò phản ứng được tiếp tục. Cuộc thử nghiệm có thể được tiến hành - nhưng rõ ràng lúc này có nhiều vấn đề phát sinh mà có vẻ ít người nhận ra. Nhân viên ca sáng là những người được hướng dẫn kỹ càng về quy trình thì đều đã ra về, hầu hết nhân viên ca tối cũng vậy. Do đó, nhân viên ca đêm là những người trực tiếp tham gia vận hành và thực hiện thử nghiệm. Họ rõ ràng không được hướng dẫn kỹ càng như nhân viên ca ngày, và cũng có rất ít thời gian chuẩn bị. Tuy nhiên, lãnh đạo nhà máy vẫn tiếp tục bám theo kế hoạch thử nghiệm - hiển nhiên là bởi vì hầu hết vẫn chỉ nghĩ đây là một thử nghiệm không phức tạp và rủi ro đến thế. Những người trực tiếp tham gia và giám sát là Phó Kỹ sư trưởng Anatoly Dyatlov - người có chức vụ cao nhất có mặt trong cuộc thử nghiệm; Giám sát ca Alexsandr Akimov - người phụ trách quản lý các nhân viên ca đêm của Đơn vị số 4; và cuối cùng là Leonid Toptunov - Kỹ sư điều khiển lò phản ứng cấp cao - phụ trách việc vận hành lò phản ứng trong quá trình thử nghiệm.
Cuộc thử nghiệm yêu cầu điều kiện là công suất của lò phản ứng giảm xuống trong khoảng từ 700 - 1000 MW. Vào lúc 0h05 phút ngày 26/4, công suất của lò số 4 giảm xuống mức 720 MW, tuy nhiên sản phẩm phụ từ quá trình phân hạch là xenon-135 đã đẩy nhanh quá trình giảm công suất. Khi mức công suất giảm xuống còn 500 MW, bộ điều khiển công suất của lò được chuyển từ LAR (Local Automatic Regulator) sang AR (Automatic Regulators) để có thể chủ động kiểm soát mức công suất của lò. AR-1 ngay sau đó được tự động kích hoạt, nhưng AR-2 thì gặp vấn đề do sự mất cân bằng trong các buồng ion hóa của nó. Để xử lý, Toptunov đã cho giảm công suất để ổn định các bộ cảm biến ion của AR. Tuy nhiên, điều này dẫn đến hậu quả là công suất bị giảm đột ngột - lò gần như rơi vào tình trạng tắt hoàn toàn với công suất chỉ đạt ngưỡng 30 MW. Lò phản ứng lúc này chỉ sản xuất được khoảng 5% mức năng lượng tối thiểu cần thiết để thử nghiệm. Quá trình đốt cháy xenon-135 trong lõi lò bị ức chế dẫn đến việc gia tăng công suất của lò bị cản trở. Để gia tăng công suất, các nhân viên phòng điều khiển buộc phải loại bỏ nhiều thanh điều khiển ra khỏi lò phản ứng, và dần dần công suất đạt mức 160 MW lúc 0h39 phút.
Khi công suất đạt mức 200 MW, thử nghiệm được tiếp tục - dù lẽ ra theo quy trình thì thử nghiệm nên được thực hiện khi lò phản ứng đạt mức công suất 700 MW. Vào lúc 1h05 phút, thêm hai máy bơm tuần hoàn được khởi động, lưu lượng chất làm mát được tăng lên; nhờ đó mà nhiệt độ và lượng hơi nước bên trong lõi lò phản ứng được giảm đi đáng kể. Bên cạnh đó, cũng vì nước hấp thụ neutron tốt hơn hơi nước đơn thuần nên dòng neutron và công suất hoạt động của lò cũng bị giảm đi. Để đối phó với điều này, các nhân viên giám sát tiếp tục loại bỏ thêm các thanh điều khiển trong lò để giữ mức năng lượng được ổn định. Lúc này, số lượng các thanh điều khiển trong lò phản ứng tụt xuống thấp hơn mức yêu cầu tối thiểu là 15 chiếc.
Ta có thể thấy rằng dường như mọi bước trong quy trình thử nghiệm đều hoặc gặp vấn đề, hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn yêu cầu. Từ đó dẫn đến việc lò phản ứng số 4 dần trở nên cực kỳ thiếu ổn định. Các nhân viên vận hành dường như không nắm rõ được tình trạng mất ổn định của lò nên vẫn tiếp tục. Vào lúc 1h23p04s, phần chính của cuộc thử nghiệm bắt đầu, nhưng không một ai biết được rõ mức độ nguy hiểm khi ấy. Điện cấp cho các máy bơm nước bị ngắt, dòng nước bơm giảm đi. Tuabin bị ngắt khỏi lò phản ứng làm tăng lượng hơi nước trong lõi lò. Khi nước làm mát nóng lên, các bong bóng hơi hình thành bên trong lõi lò. Thiết kế kiểu lò RBMK ở Chernobyl có hệ số trống dương rất lớn, có nghĩa là năng lượng của lò phản ứng tăng lên nhanh chóng khi không có hiệu ứng hấp thu neutron của nước. Và trong trường hợp đó, hoạt động của lò phản ứng dần trở nên thiếu ổn định và nguy hiểm.
Vào lúc 1h23p40s, theo ghi nhận từ hệ thống điều khiển trung tâm SKALA thì hệ thống ngắt lò khẩn cấp (hay còn gọi là SCRAM) được kích hoạt thông qua việc nhấn nút AZ-5 (viết tắt của Bảo vệ khẩn cấp loại 5). Khi nhấn nút này, quá trình đưa lại toàn bộ các thanh điều khiển vào bên trong lõi lò bắt đầu - tuy nhiên quá trình này mất từ 18 - 20 giây mới hoàn thành. Lúc này công suất của lò tăng lên một cách đột ngột, khiến nhiều thanh nhiên liệu bị gãy làm lượng uranium trong lõi lò theo đó mà tăng lên. Điều này dẫn tới việc nhiều thanh điều khiển bị biến dạng và bị kẹt không thể đi sâu vào trong lõi lò. Do đó, các phản ứng phân rã bên trong lò không thể dừng lại được và chỉ trong 3 giây tiếp theo, công suất của lò nhảy vọt lên 530 MW. Đến khoảng 1h23p45s, công suất của lò số 4 đã chạm ngưỡng 30 GW tức là gấp mười lần công suất hoạt động tối đa thông thường. Các thanh nhiên liệu tiếp tục bị nứt vỡ, nóng chảy khiếp áp lực hơi nước bên trong lõi lò tăng cao; cuối cùng dẫn đến một vụ nổ hơi nước khiến nắp lò bị phá hủy, các ống dẫn chất làm mát bị vỡ và cuối cùng cả một mảng trần bị đổ sụp. Vụ cháy nhanh chóng lan ra nhiều công trình xung quanh, và tất nhiên trong một tai nạn như thế này, các chất phóng xạ cũng bị phát tán ra bên ngoài.
Cảnh trong series "Chernobyl" của HBO
Cảnh trong series "Chernobyl" của HBO
Ngay sau khi tai nạn xảy ra, lực lượng cứu hỏa đã có mặt để cố gắng dập tắt các đám cháy. Những người có mặt đầu tiên chính là đội cứu hỏa của Chernobyl do Trung úy Volodymyr Pravyk chỉ huy. Điều đáng nói là các nhân viên cứu hỏa không biết và cũng không được thông báo chi tiết về vụ tai nạn mà chỉ nghĩ nó là một vụ cháy do chập điện. Do đó, không một ai được trang bị các đồ bảo hộ cần thiết, dẫn tới việc rất nhiều nhân viên cứu hỏa bị nhiễm xạ, nhiều người qua đời không lâu sau đó, ví dụ như Trung úy Pravyk mất ngày 11/5 do nhiễm độc phóng xạ quá nặng. Một trong những người lái xe cứu hỏa là Grigorii Khmel đã mô tả cảnh tượng lúc đó như sau:
Chúng tôi đến nơi vào khoảng 2 giờ kém 10 hoặc 15 gì đó… Những mảnh than chì vương vãi khắp nơi [...] Chúng tôi không biết là tai nạn liên quan đến phóng xạ. Thậm chí nhiều người đang làm việc ở đó cũng không hay biết gì. Những người đi lên mái nhà về sau đều chết cả - tôi nhớ có Vashchik, Kolya, Volodya Pravik và mấy người khác… Họ leo lên thang… và tôi không bao giờ còn thấy họ quay lại nữa.
Một lính cứu hỏa khác là Anatoli Zakharov cũng kể rằng: “Tôi còn nhớ lúc ấy có đùa với anh em xung quanh rằng ‘Ở đây chắc phải rất nhiều phóng xạ đấy. Nếu đến sáng mà tất cả bọn mình còn sống thì đúng là may mắn.’ [...] Tất nhiên chúng tôi biết việc này nguy hiểm thế nào chứ. Nếu tuân theo đúng quy định thì không đời nào bọn tôi đến gần lò phản ứng lúc ấy. Nhưng cứu người là bổn phận và nghĩa vụ của chúng tôi.”
Ưu tiên số một lúc đó là dập tắt các đám cháy tại lò phản ứng số 4 cùng các công trình xung quanh để ngăn nó lan sang cả lò phản ứng số 3. Đến khoảng 5 giờ sáng thì các đám cháy đã được khống chế, nhưng cái giá phải trả là rất nhiều lính cứu hỏa bị nhiễm xạ nặng do không có đồ bảo hộ chuyên dụng. Tuy nhiên, đó chỉ là những đám cháy ở bên ngoài - riêng đám cháy ở trong lõi của lò phản ứng số 4 thì không thể dập tắt bằng nước thông thường. Thực tế là đám cháy trong lõi lò số 4 đến tận ngày 10/5 mới tắt hẳn. Đã có rất nhiều nỗ lực dập tắt nó sớm hơn, khi nhiều phi công mạo hiểm lái máy bay vào gần vùng trung tâm phát tán phóng xạ của lò số 4 để thả tổng cộng hơn 5000 tấn cát, chì, đất sét và các chất hấp thụ neutron. Tuy nhiên, những nỗ lực ấy gần như công cốc, vì các nghiên cứu cho thấy hầu như chúng không chạm được tới trung tâm của lò phản ứng. Các nhà sử học ước tính ít nhất 600 phi công đã thực hiện hàng ngàn chuyến bay như vậy để cố gắng ngăn chặn phóng xạ lan rộng.
Tuy đa phần các đám cháy ở bên ngoài khu vực lò phản ứng số 4 đã được dập tắt thành công; nhưng hiểm họa thực sự nằm ở lượng phóng xạ bị phát tán ra môi trường. Ở những nơi nguy hiểm nhất, lượng phóng xạ cao gấp 200 lần mức độ chết người. Tuy nhiên, vì những trục trặc trong các thiết bị đo nồng độ phóng xạ nên các nhân viên thực hiện thử nghiệm trong khu vực lò số 4 đã không có được các thông số chính xác. Thậm chí người phụ trách giám sát là Alexsandr Akimov còn cho rằng lõi lò số 4 còn nguyên vẹn do không nắm được các con số thực sự về nồng độ phóng xạ sau khi tai nạn xảy ra. Do đó, Akimov cùng nhiều người khác đã ở lại bên trong khu vực đến tận sáng, cố gắng bơm nước vào bên trong lò - tất cả họ đều không mặc đồ bảo hộ. Hầu hết đều qua đời trong vòng 3 tuần sau đó vì nhiễm độc phóng xạ, trong đó có cả Akimov.

Hậu quả của thảm họa

Tai nạn ở Chernobyl thường được coi là một trong những thảm họa hạt nhân nghiêm trọng nhất lịch sử. Mặc dù lượng phóng xạ bị phát tán từ tai nạn là cực kỳ lớn và với tốc độ rất nhanh, nhưng việc sơ tán dân cư của thành phố Pripyat lại không được thực hiện mãi cho đến gần trưa ngày 27/4. Một vài tiếng sau khi tai nạn diễn ra, hàng chục người tại Pripyat bắt đầu đổ bệnh với triệu chứng giống nhau: những cơn đau đầu liên tục, vị kim loại trong miệng và nôn mửa liên tục. Và mặc dù Pripyat nằm trong lãnh thổ Ukraine, nhưng nhà máy điện Chernobyl lại trực thuộc quyền kiểm soát của chính quyền trung ương Xô Viết ở Moscow nên chính phủ Ukraine không nắm được toàn bộ sự việc xảy ra ở Chernobyl. Ngay khi nhận được những tin tức đáng lo về tình hình thực tế ở Chernobyl, một ủy ban đã được tức tốc thành lập để điều tra về vụ tai nạn. Người đứng đầu ủy ban là Valery Legasov, Phó Giám đốc Viện Năng lượng Nguyên tử Kurchatov; cùng một số chuyên gia về hạt nhân khác. Họ đến khu vực bên ngoài nhà máy điện hạt nhân vào tối ngày 26. Sau khi nhanh chóng xem xét tình hình, ủy ban kết luận rằng lò phản ứng số 4 đã bị phá hủy và lượng phóng xạ phát tán ra môi trường đang cực kỳ cao. Rạng sáng ngày 27, lệnh sơ tán toàn thành phố Pripyat được đưa ra.
Đến khoảng 15h ngày 27, hầu như toàn bộ hơn 53 ngàn dân của Pripyat đã được sơ tán đến các ngôi làng trong khu vực. Một ngày sau đó, dân cư trong khu vực bán kính 10km được yêu cầu di tản. Mười ngày sau, bán kính di tản được tăng lên 30km. Hiện nay, toàn bộ khu vực đó được gọi là Vùng loại trừ hạt nhân Chernobyl. Tổng cộng trong khoảng từ năm 1986 đến năm 2000, ít nhất 350 ngàn người đã buộc phải di tản khỏi các vùng xung quanh nhà máy điện hạt nhân Chernobyl.
Thành phố Pripyat ngày nay
Thành phố Pripyat ngày nay
Ngay sau khi thảm họa diễn ra, một đám mây phóng xạ lớn đã lan rộng ra khắp các vùng lãnh thổ của Nga, Belarus và Ukraine; ngoài ra còn nhiều vùng khác ở khắp các nước châu u cũng bị ảnh hưởng ít nhiều như Thụy Điển, Phần Lan, Áo, Na Uy, Bulgaria, Thụy Sỹ, Hy Lạp, Slovenia, Italy. Vào ngày 27/4, các công nhân làm việc tại Nhà máy điện nguyên tử Forsmark (cách Chernobyl gần 1100 km) đã phát hiện thấy các hạt phóng xạ trên quần áo của họ. Chính việc người Thụy Điển tìm kiếm nguồn gốc phát tán phóng xạ và xác định rằng nhà máy điện nguyên tử của họ không bị rò rỉ đã dấy lên những ý kiến lo ngại về một tai nạn hạt nhân nghiêm trọng ở phía tây Liên bang Xô Viết. Tuy nhiên, do quy mô của thảm họa nên chính phủ Liên Xô hẳn nhiên đã cố gắng tìm cách che giấu những thông tin chính xác về Chernobyl. Ban đầu chỉ là những nhận định chưa chính xác về tình hình thực tế ở Chernobyl - một trong những người nhận được tin đầu tiên về thảm họa là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev, nhưng tin nhắn vẫn báo là “lò phản ứng còn nguyên vẹn”, hẳn là vì ảnh hưởng từ đánh giá của các thành viên thực hiện thử nghiệm. Chính vì thế nên Gorbachev hẳn là không muốn mạo hiểm gây ra một sự bất an với các quan chức khác. Vì vậy mới dẫn đến việc sơ tán thành phố Pripyat bị chậm trễ như vậy. Và sau khi nhận thức được đầy đủ sự nghiêm trọng của thảm họa ở Chernobyl, chính phủ Liên Xô mới thực hiện các biện pháp để giảm thiểu thiệt hại. Phải đến hai ngày sau khi thảm họa diễn ra, Liên Xô mới đưa ra thông báo chính thức, nhưng thông tin được công khai cũng rất hãn hữu và mù mờ. Để tránh những ảnh hưởng không đáng có đến tình hình các nước trong Liên bang, chính phủ Liên Xô cũng hạn chế việc đưa tin về thảm họa. Tuy nhiên, những nỗ lực này không mấy thành công do ảnh hưởng từ thảm họa là quá lớn, khó có thể che đậy toàn bộ.
Ô nhiễm từ tai nạn Chernobyl lan ra các vùng nông thôn xung quanh ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Các báo cáo từ phía các nhà khoa học Xô Viết và phương Tây cho thấy Belarus tiếp nhận đến 60% lượng phóng xạ. Tuy nhiên báo cáo TORCH 2006 cho thấy hơn một nửa số hạt phóng xạ đã rơi xuống bên ngoài Ukraine, Belarus và Nga. Một diện tích đất đai rộng của Liên bang Nga phía nam Bryansk và nhiều vùng khác phía tây bắc Ukraine cũng bị ô nhiễm.
Mức độ phóng xạ ở khu vực xung quanh Chernobyl vào năm 1996
Mức độ phóng xạ ở khu vực xung quanh Chernobyl vào năm 1996
Vụ tai nạn ở Chernobyl đã khiến 237 người phải nhập viện ngay lập tức. Hai kỹ sư của nhà máy tử vong tại chỗ, 2 người khác bị bỏng nặng; 134 người có dấu hiệu của việc bị nhiễm độc phóng xạ. Trong số ấy, 28 người qua đời trong 3 tháng tiếp theo, những người còn lại tuy may mắn sống sót nhưng vẫn bị ảnh hưởng dài lâu bởi phóng xạ. 135 ngàn người đã phải sơ tán lập tức khỏi các vùng bị ảnh hưởng, trong đó có toàn bộ 53 ngàn cư dân của thành phố Pripyat. Đến tận ngày nay, nhiều cơ quan và tổ chức vẫn còn tranh cãi về số người chính xác đã thiệt mạng hoặc bị ảnh hưởng sức khỏe bởi phóng xạ phát tán ra từ thảm họa ở Chernobyl. Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA từng đưa ra một bản báo cáo vào năm 2005 và cho rằng ít nhất 4000 người đã thiệt mạng do những nguyên nhân gián tiếp từ thảm họa. Trong khi đó, Tổ chức Y tế Thế giới WHO thì đưa ra những con số là 47 người (chủ yếu là công nhân và lính cứu hỏa) tử vong vì nhiễm độc phóng xạ trực tiếp; ít nhất 600 ngàn người bị phơi nhiễm xạ ở các mức độ khác nhau và khoảng 4000 người trong số đó bị ung thư. Ngoài ra, WHO cũng nhận định rằng có khoảng 5000 trường hợp nhiễm ung thư từ phóng xạ tại các khu vực khác bị ảnh hưởng của Nga, Belarus và Ukraine. Tổng cộng, con số được WHO đưa ra là khoảng 6,8 triệu công dân của Liên bang Xô Viết bị phơi nhiễm phóng xạ ở nhiều mức độ khác nhau. Ngoài ra, Bộ Y tế Ukraine cho rằng hơn 2,4 triệu người dân, trong đó có 428 ngàn trẻ em, đã gặp phải các vấn đề sức khỏe liên quan tới thảm hoạ Chernobyl. Nói tóm lại, dù các con số của nhiều nghiên cứu có khác nhau, thì chúng ta cũng có thể kết luận rằng thảm họa Chernobyl đã ảnh hưởng tới sức khỏe và cuộc sống của hàng triệu người và gây ra cái chết của hàng ngàn người một cách gián tiếp.
Bên cạnh những hậu quả về người, thảm họa Chernobyl cũng gây ra những tác hại cực kỳ nghiêm trọng về môi trường. Ngay sau thảm họa, khoảng 4km vuông rừng thông xung quanh khu vực nhà máy Chernobyl đã dần héo úa, chuyển sang màu nâu đỏ rồi chết. Nhiều động vật trong những khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất cũng chịu chung số phận. Tỷ lệ đột biến của thực vật và động vật trong các khu vực xung quanh đã tăng lên 20 lần do phát tán phóng xạ từ Chernobyl. Sông Pripyat cùng nhiều hồ nước trong khu vực cũng bị nhiễm xạ nặng - một số nghiên cứu chỉ ra rằng lượng phóng xạ trong các lớp trầm tích dưới đáy các hồ nước đó cao gấp đôi thông thường. Hầu hết chúng vẫn còn nhiễm xạ, và sẽ phải mất hàng chục năm để lượng phóng xạ hạ về mức an toàn. Tổng cộng có khoảng 150 ngàn km vuông đất của Nga, Belarus và Ukraine bị nhiễm xạ ở nhiều mức độ, trong đó khoảng 4000 km vuông gần nhà máy điện Chernobyl là ảnh hưởng nặng nhất. Đặc biệt khu vực rộng khoảng 30 km vuông quanh Chernobyl được xếp là Khu vực cấm và tuyệt đối không cho phép con người sinh sống.
Không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng về con người và môi trường, thảm họa Chernobyl cũng ảnh hưởng tới cả tình hình kinh tế và chính trị của Liên bang Xô Viết nói chung và các quốc gia như Ukraine và Belarus nói riêng. Theo Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô lúc đó là Mikhail Gorbachev, Liên Xô đã chi ra 18 tỷ rúp cho công cuộc giải quyết những hậu quả từ thảm họa. Tại Belarus, tổng chi phí khắc phục hậu quả trong 30 năm (tính đến năm 2005) ước tính khoảng 235 tỷ USD. Tại Ukraine, khoảng 5% - 7% chi tiêu hàng năm của chính phủ vẫn là các khoản chi phí liên quan tới thảm họa Chernobyl. Phần lớn chi phí hiện tại liên quan đến việc chi trả các lợi ích xã hội liên quan đến Chernobyl cho khoảng gần 7 triệu người trên khắp các nước Nga, Ukraine và Belarus. Bên cạnh đó, tác hại từ thảm họa Chernobyl cũng khiến hàng trăm ngàn ha đất canh tác nông nghiệp và rừng sản xuất bị hủy hoại gần như toàn bộ. Thảm họa Chernobyl cũng tác động lớn đến chính sách Glasnost - một chính sách cải tổ, chủ trương công khai và minh bạch đến mức tối đa các hoạt động của những cơ quan nhà nước và tự do thông tin và ngôn luận tại Liên Xô do Gorbachev đề ra. Thảm họa này vẫn được coi là một trong những tác nhân lớn dẫn đến sự tan rã và sụp đổ của Liên bang Xô Viết vào năm 1991.
Một số hình ảnh về thành phố Pripyat
Một số hình ảnh về thành phố Pripyat

Kết

Đã gần bốn thập kỷ trôi qua kể từ thảm họa Chernobyl, và hậu quả của nó vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Thế giới hiện tại đã thay đổi nhiều, nhưng công nghệ năng lượng hạt nhân vẫn là một phần không thể thiếu - ít nhất là trong tương lai khá xa, đến khi nhân loại có thể tìm ra một công nghệ khác an toàn hơn. Cho đến khi ngày đó đến, chúng ta vẫn sẽ phải lo ngại về những nguy cơ của một hoặc nhiều thảm họa hạt nhân khác. Dĩ nhiên là những quy trình ứng phó và ngăn chặn đã khiến công nghệ năng lượng hạt nhân an toàn hơn, thế nhưng lo ngại thì không bao giờ là thừa. Chỉ cần nhìn vào hậu quả từ những thảm họa hạt nhân nghiêm trọng như Chernobyl năm 1986 hay Fukushima năm 2011, là đủ để ta biết được con dao hai lưỡi này nguy hiểm đến mức nào.