#22. Temptation bundling và cách để biến thói quen trở nên hấp dẫn hơn
Trong thập niên 1990, Kahneman cùng các cộng sự của mình đã thực hiện rất nhiều thí nghiệm để nghiên cứu về cách mà bộ não chúng ta...

Source: Bret Kavanaugh-Unsplash
Trong thập niên 1990, Kahneman cùng các cộng sự của mình đã thực hiện rất nhiều thí nghiệm để nghiên cứu về cách mà bộ não chúng ta hình thành các ký ức từ các trải nghiệm đã được diễn ra.
Trong năm 1993, nhà khoa học Kahneman và các đồng sự đã thực hiện thí nghiệm liên quan tới cách mà trải nghiệm khó chịu hình thành. Trong lượt thí nghiệm đầu tiên, những người tham gia sẽ ngâm một bàn tay trong nước ở nhiệt độ 14°C trong 60 giây. Trong lượt thí nghiệm thứ hai họ sẽ ngâm bàn tay còn lại vào nước ở nhiệt độ 14°C trong 60 giây, và tiếp tục ngâm thêm 30 giây nữa trong nước ở nhiệt độ 15°C. Sau đó các nhà khoa học sẽ yêu cầu những người tham gia chọn ra một thử nghiệm mà họ muốn lặp lại.
Điều thú vị ở đây là hầu hết mọi người đã chọn thử nghiệm thứ hai, thí nghiệm mà nếu thực sự mọi người cân nhắc và suy nghĩ thực sự có lý trí thì sẽ lựa chọn. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mọi người đánh giá trải nghiệm dựa trên kết thúc của nó.
Trong năm 1996, Kahneman và các đồng sự tiếp tục thí nghiệm để tìm hiểu thêm về sự ghi nhận về trải nghiệm của con người. 154 bệnh nhân nội soi đại tràng được yêu cầu đánh giá mức độ khó chịu của họ trong khoảng thời gian 60 giây diễn ra quy trình nội soi, và sau đó họ được yêu cầu mô tả lại mức độ khó chịu của quy trình sau khi kết thúc. Trong thí nghiệm này các nhà khoa học đã phát hiện ra mức độ khó chịu trung bình không có mối tương quan nào với mức độ khó chịu mà những người được khảo sát trả lời. Điều liên quan đến kết quả khảo sát là mức độ khó chịu trong những giây phút có mức độ khó chịu cao nhất và giây phút cuối cùng của quy trình nội soi.
Trong một phần tiếp theo của cuộc nghiên cứu năm 1996, Kahneman và các đồng sự đã chia những bệnh nhân nội soi đại tràng thành hai nhóm khác nhau. Một nhóm trải qua quy trình tiêu chuẩn trong 1 phút, và máy nội soi được lấy ra ngay lập tức sau một thủ thuật cực kỳ đau đớn và nhóm còn lại thì để máy ảnh bên trong họ thêm ba phút trong cảm giác khó chịu nhưng không đau và rồi lấy máy nội soi ra một cách nhẹ nhàng hơn. Nhóm thứ hai, những người có trải nghiệm thực tế kéo dài lâu hơn nhưng ít đau hơn vào cuối, đánh giá quy trình này là ít khó chịu hơn và có nhiều khả năng quay lại để tiếp tục hơn nhóm còn lại.
Từ các nghiên cứu này năm, Kahneman và Tversky đã đưa ra lý thuyết đỉnh-đích, theo đó một trải nghiệm sẽ được bộ não ghi nhớ ở thời điểm có cường độ cảm xúc, cảm giác cao nhất và/hoặc thời điểm kết thúc của trải nghiệm thay vì được ghi nhận dựa trên cường độ trung bình của cảm xúc của toàn bộ trải nghiệm.
Tuy nhiên thú vị hơn cả là nếu bạn gắn các thói quen bạn muốn xây dựng thành một điều kiện cần trước bạn thực hiện một thói quen mang lại cho bạn sự thỏa mãn thì bạn sẽ có động lực hơn nhiều để thực hiện thói quen mới (nếu không bạn sẽ phải bỏ lỡ một điều thú vị mà bạn mong muốn). Thậm chí quá trình này còn có thể giúp bạn cảm thấy hứng thú với việc thực hiện thói quen mới bởi bộ não sẽ liên hệ cảm giác thỏa mãn dễ chịu tại thời điểm kết thúc chuỗi hành động với thói quen mới. Đây chính là cách sử dụng một hành vi có nhiều khả năng xảy ra để củng cố một hành vi có ít khả năng xảy ra. Chúng ta sẽ cùng đi tới một vài ví dụ của temptation bundling như sau để có thể dễ dàng hơn để hình dung hơn cách áp dụng vào thực tế.
Các hãng kinh doanh cũng là chuyên gia trong việc temptation bundling. Đó là việc mà khi Unilever lần đầu tiên đưa sản phẩm nước xả vải Comfort đã link sản phẩm này với nhãn hiệu bột giặt Omo, vốn là nhãn hiệu đang chiếm lĩnh thị trường bột giặt và được nhiều người tin tưởng trong thời gian đó. Bằng cách đưa quảng cáo lồng ghép các quảng cáo của Comfort là sản phẩm được khuyên dùng chung với sản phẩm Omo cũng như hai sản phẩm này thường được kết hợp để bán theo dạng combo. Comfort đã có khởi đầu thành công không chỉ về mặt số lượng mà đồng thời nhiều người mua sản phẩm cũng đã liên hệ sự tin tưởng vào sản phẩm Comfort như sự tin tưởng vào sản phẩm Omo.
Ronan Byrne, một sinh viên của trường đại học Dublin, đã thực hiện dự án Cycflix của mình để đảm bảo rằng cậu có thể thoải mái xem Netflix nhưng vẫn vẫn dành đủ thời gian để luyện tập thể thao và tránh xa được căn bệnh béo phì thường thấy của những người dành thời gian dài để ngồi trên chiếc ghế bành và xem Netflix. Với kỹ năng của một sinh viên khoa cơ điện, cậu đã lập trình và thiết kế sao cho kênh Netflix chỉ được chiếu khi cậu đạp xe ở tốc độ đủ nhanh. Nếu tốc độ xe không đạt yêu cầu trong một khoảng thời gian đủ lâu thì máy tính sẽ dừng chiếu cho tới khi cậu đạp tốc độ đủ nhanh trở lại. Trong trường hợp này Byrne đã gắn liền việc mà mình muốn làm (xem Netflix) với việc mà cậu cần phải làm (việc đạp xe tập).
Ví dụ của Byrne là một chiến lược sáng tạo mà chúng ta có thể tham khảo trong việc tận dụng một thói quen yêu thích thành điều kiện cần của của một thói quen cần được xây dựng. Ví dụ giống hệt như trường hợp của Byrne, bạn muốn lướt Facebook, nhưng bạn cũng cần phải tập thể dục thì bạn có thể đặt cho mình một nguyên tắc trước khi thực hiện việc lướt Facebook mình sẽ phải thực hiện việc chống đẩy/squad 10 cái.
Ngoài ra bạn cũng có thể kết hợp phương pháp temptation bundling với phương pháp xếp chồng thói quen để tạo ra một bộ các thói quen giúp bạn dễ dàng thực hiện những thói quen mà bạn mong muốn như sau: (i) thực hiện [thói quen dấu hiệu], (ii) thực hiện [thói quen mới], (iii) thực hiện [thói quen mong muốn]. Giả sử bạn muốn đọc tin tức thể thao và thường thực hiện vào lúc uống cafe sáng và bạn muốn thực hiện thói quen về luyện tập lòng biết ơn thì bạn có thể chen vào giữa lịch trình uống cafe và đọc tin tức thể thao như sau: sau khi (i) pha một tách cafe, (ii) tôi sẽ nói một điều biết ơn, sau đó (iii) tôi sẽ đi đọc tin tức thể thao.
Trong quyển sách thói quen nguyên tử, mình đã được đọc về câu chuyện của một nhà văn tại Pittsburgh, người đã phát hiện ra việc đeo tai có thể làm anh ấy tăng sự tập trung kể cả khi anh ấy không bật nhạc. Tại thời điểm ban đầu, anh ấy không nhận ra việc đó, đơn giản là anh ấy đeo tai nghe, bật một vài bản nhạc yêu thích, và tập trung làm việc. Sau khi làm như vậy năm, mười, hai mươi lần, đeo tai nghe trở thành một tác được gắn liền với việc tăng sự tập trung. Khi được kể về ví dụ này mình cũng phát hiện ra có một sự tương đồng đáng kể, khi đeo tai nghe, tâm trí mình có phần tự đóng lại và cách biệt hơn đáng kể và đúng là nhiều khi bài nhạc đã bị tắt rất lâu nhưng mình vẫn giữ được sự tập trung trong thời gian dài sau đó. Những ví dụ về việc điều kiện hóa, lập trình tư duy có vẻ quen thuộc với chúng ta hơn là chúng ta nghĩ, chỉ là chúng ta chưa nhận ra được nguyên tắc đó cũng như cách tốt nhất để có thể tận dụng chúng. Bạn thậm chí có thể tạo cho mình một nghi lễđộng lực để sử dụng bất cứ khi nào bạn cần bằng cách luyện tập để gắn thói quen với những thứ mình yêu thích với những hành động không chiếm nhiều thời gian. Thí dụ vuốt ve thú cưng mang lại cho bạn sự dễ chịu, thoải mái, bình yên và việc hít thở sâu ba lần rồi mỉm cười chỉ làm bạn tốt rất ít thời gian thì bạn có thể thực hiện việc hít thở sâu ba lần, mỉm cười rồi vuốt ve thú cưng. Lặp lại điều đó vài lần bạn sẽ có cho mình một nghi lễ động lực, tạo cho mình sự bình yên, dễ chịu. Thứ mà bạn có thể tận dụng nhanh chóng mỗi khi bạn cần.

Phát triển bản thân
/phat-trien-ban-than
Bài viết nổi bật khác
- Hot nhất
- Mới nhất
