Câu Chuyện thứ Nhất

Vào mùa đông năm tôi đang vật vã cày SAT và chuẩn bị cho mùa tuyển sinh, Modiano đạt Nobel năm học. Mùa đông năm ấy, cuốn Quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối đắt như tôm tươi và với tôi, dường như trào lưu mở quán cà phê cũng từ cuốn sách ấy mà ra thì phải. Tiểu thuyết kể về một cô gái có tên giả là Louki. Louki có nhiều thân phận nhưng dường như đó là cái tên cô thích nhất. Louki không thể là đứa con gái ngoan, vì mẹ cô thường bỏ cô ở nhà một mình cả ngày, dẫn tới việc cô cứ lang thang khắp nơi. Louki không thể là người vợ ngoan, vì dù chồng giàu có và yêu cô, nhưng anh ta chỉ xem cô như bức tượng đẹp đặt hợp lý trong ngôi biệt thự lạnh lẽo. Louki không thể là người tình hoàn hảo, vì người cô yêu chỉ muốn sống mãi trong khách sạn rẻ tiền ở ngoại ô để anh ta mải mê mơ hồ trong đống lý thuyết. Louki thử gia nhập nhóm hippie choai choai và cả hội triết học, cô đến quán cà phê của dân bohemien nơi sinh viên nghèo cũng tụ tập mỗi ngày... nhưng dù ở đâu, Louki vẫn thấy cô đơn và không thuộc về. Cuối cùng, nàng nhảy từ trên gác mái xuống trong cơn nửa tỉnh nửa mê khi chưa đầy 25 tuổi.
Vì ám ảnh với nhân vật Louki, dù tôi thi cử đủ tiêu chuẩn của gia đình, tôi cũng mất 3 tháng để chữa lành cơn trầm kha quái gở khiến tôi nhập học muộn, đường học vấn của tôi bấp bênh thêm chút ít.

Câu Chuyện thứ Hai

Trong thời gian cách ly điều trị tâm lý, thỉnh thoảng tôi được ra ngoài chơi. Đây là lúc tình cờ tôi được gợi ý làm thẻ Thư viện Quốc gia. May mắn thay, đây đích thực là nơi trú chân hoàn hảo cho thời thanh xuân của tôi. Cuốn sách đầu tiên tôi đọc là về Tư tưởng của Sartre.
Theo những gì tôi nhớ, Sartre lý giải con người phủ định tự do bằng cách coi mình như một vật cố định, bị định hình bởi vai trò xã hội, nghề nghiệp hay hoàn cảnh. Ví dụ, một người lao động có thể nghĩ "Tôi chỉ là một công nhân, tôi phải làm vậy", từ chối khả năng thay đổi. Ngược lại, ta cũng giả vờ mình hoàn toàn tự do, bỏ qua những hạn chế thực tế như cơ thể, lịch sử hay môi trường. Một người nghiện rượu có thể nói "Tôi có thể bỏ bất cứ lúc nào", nhưng không hành động, phủ nhận sự thật về tình trạng của mình.
Cả hai đều xuất phát từ "nothingness" (le néant) tức là khoảng trống mà ý thức tạo ra để phủ định cái đã có. Một trong những minh họa kinh điển nhất của Sartre là hình ảnh người phục vụ quán cà phê.
Ông miêu tả: "Anh ta di chuyển quá chính xác, quá nhanh nhẹn, quá lịch thiệp. Anh ta đang chơi trò làm người phục vụ."
Ở đây, người phục vụ không chỉ thực hiện công việc; anh ta đồng nhất hoàn toàn với vai trò ấy, như thể anh ta sinh ra để làm phục vụ, không gì khác. Anh ta phủ nhận tự do của mình: anh ta có thể chọn cách khác, nhưng chọn tin rằng mình phải như vậy để tránh trách nhiệm tạo nên cuộc đời riêng.
Sartre so sánh điều này với một diễn viên trên sân khấu, nhưng khác biệt ở chỗ người phục vụ tin vào vai diễn của mình, biến nó thành bản chất cố định.
Một ví dụ khác là người phụ nữ trong buổi hẹn hò, được Sartre mô tả:
Khi người đàn ông nắm tay cô, cô để mặc, giả vờ rằng bàn tay ấy không phải của mình, phủ nhận trách nhiệm phản ứng với hành động ấy. Cô rơi vào một trạng thaid mà bằng cách tách rời ý thức khỏi cơ thể, tránh lựa chọn rõ ràng.
Nói không ngoa, Sartre chữa lành cho tôi hơn cả khóa trị liệu mà bố mẹ tôi khổ sở theo đuổi. Từng câu từng chữ đã giúp giải thích cái cảm giác giả tạo về một thế giới không thực xung quanh tôi.
Các hiện tượng như "imposter syndrome" (cảm giác giả mạo) sống theo kỳ vọng xã hội mạng hay trốn tránh trách nhiệm môi trường bằng cách đổ lỗi cho hệ thống... chính là lời cảnh tỉnh cho cái tôi lạc lối thời điểm đó:
Đừng để tự do trở thành gánh nặng mà ta trốn tránh. Hãy ôm lấy nó để sống chân thực, dù trong vòng xoáy vô định của tồn tại. Như ông viết, con người bị "condemned to be free" (condamné à être libre) hay một lời nguyền rủa đẹp đẽ, chỉ khi ta dám nhìn thẳng vào nó.

Câu Chuyện thứ Ba

Giống như Louki, tôi cũng bị nghiện tham gia hội nhóm. Mà phần lớn trong đó là các hội nhóm phim ảnh. Vì thời gian giao lưu trò chuyện của mấy hội nhóm đó ngắn hơn các hội khác, do thời lượng phim chiếu là chính. Có một bộ phim tôi nhớ mãi là Dancer in the Dark của Lars von Triers.
Cái ông đạo diễn mà mỗi lần tôi bảo đây là đạo diễn tôi thích là thế nào cũng có thằng dở hơi nào đó cười cười cợt nhả kiểu: À thế chắc em xem Người đàn bà Cuồng dâm của ông ý rồi. Kỳ lạ thay là tôi lại đếch xem phim đấy, nên chỉ biết nghệt mặt ra trước mấy câu đùa kiểu vậy.
Phim tôi thích nói về Selma, một công nhân nhập cư người Séc tại Mỹ, bị bệnh di truyền và đang dần mất thị lực. Cô phải tiết kiệm từng xu để phẫu thuật mắt cho con trai, người cũng có nguy cơ mắc bệnh tương tự. Niềm vui duy nhất của cô là nhảy múa mỗi ngày trong ca làm đêm khi công xưởng vắng người. Nhưng một tai nạn đã xảy ra khiến cô bị buộc tội giết người và bị hành quyết trước mặt con trai cô yêu thương.Selma khác Louki, cô làm tròn tất cả các vai diễn cần để tồn tại: một người mẹ tốt, một công nhân chăm chỉ, một công dân tiết kiệm và hiền lành. Nhưng chưa đủ. Cô vẫn bị hệ thống loại bỏ, vì cô không diễn đúng vai mà xã hội cần.
Đây là bộ phim tôi không bao giờ gợi ý cho ai xem, vì 70% thời lượng, nó mang đến sự phẫn nộ - một kiểu đẩy cảm xúc rất cực đoan chuẩn Lars von Triers. Người xem sẽ tự hỏi, sao Selma cô không mạnh mẽ lên, sao không tự vệ, sao không kêu oan, sao không giành công lý?
Chính người xem cũng không thể thông cảm được với Selma vì cô không diễn đúng vai, có đúng "bản sắc" cần thiết trong hoàn cảnh mà xã hội buộc cô vào. Ai cho cô hiền lành, ai cho phép cô tử tế và hy sin Selma chết là đáng kiếp và là cách giải quyết tốt nhất. Hết phim.
Bi kịch của Selma vì thế vượt xa câu chuyện về một người mẹ bị xử oan. Đó là bi kịch của con người tốt trong một xã hội không có cấu trúc để hiểu, tiếp nhận, hay bảo vệ sự tốt đó. Khi không đủ năng lực xã hội và hiểu biết để bất kỳ vai nào được xã hội công nhận, chỉ biết "là chính mình, thì dù sống đúng, sống tử tế, Selma vẫn mất quyền tồn tại trong trật tự xã hội của kinh tế thị trường và văn hóa biểu tượng. Như Louki của Modiano, Selma bị hành quyết bởi chính kết cấu performative indentiny của xã hội.

Câu Chuyện thứ Tư

Cuối cùng thì tôi cũng có bạn. Nhưng khổ nỗi, có bạn ở tuổi ẩm ương nghĩa là trên 70% thời lượng gặp gỡ của 2 đứa là vì nỗi buồn. Mà nếu là 2 đứa con gái vào độ tuổi dẩm dở thì tỷ lệ hẹn hò vì sầu đời cao hơn. Một hôm, tôi hỏi nó:
- Ừ thì gặp nhau, ừ thì buồn, nhưng bỏ hút thuốc và uống rượu đi nhé. Nhìn nát lắm. - Nhưng nếu không uống rượu và hút thuốc thì gọi đéo gì là buồn. - Thế không gọi là buồn thì gọi là gì? - Tao đéo biết. Chỉ biết là nếu không uống rượu, hút thuốc hoặc gặp mày, thì cảm xúc chỉ là trống rỗng, không gọi là buồn được, vậy thôi. Chắc là thói quen mẹ rồi.
Tôi cũng lú luôn với nó. Đừng nghĩ chúng tôi ngồi quán la cà chỉ là để có vài cái ảnh sống ảo trên mạng. Không, ngay cả khi chẳng có ai chứng kiến, chúng tôi vẫn cần có nhau, có tý cồn, tý khói, ấy mới gọi là buồn.
Chúng tôi đã diễn vai những cô gái trẻ buồn bã mà không đòi hỏi khán giả, bởi chúng tôi đã lớn lên và trưởng thành với một kịch bản văn hóa đã được nội tâm hóa. Ngay cả khi không có mạng xã hội hay ai đó đồng hành, tôi và bạn, vẫn có thể đang diễn - cho chính mình.
Con người ta là thế đấy - Không diễn vì có người xem, mà vì đã sống trong một hệ thống chuẩn mực quy định cách cảm xúc phải được biểu đạt. Mình “diễn” để giống với phiên bản “người hợp lệ” mà văn hóa đã dạy: Tôi là kiểu người buồn-là-hút-thuốc
Nếu không có thuốc/rượu, ta thậm chí còn không định danh được nỗi buồn. Vì cảm xúc nội tại đã bị thay thế bằng biểu tượng. Ta cần vật phẩm hành vi đó như một “ngôn ngữ” để đọc chính mình.
Bạn tôi giờ đã kết hôn và có 2 con nhỏ. Tôi mất liên lạc với bạn, không biết bạn còn buồn không, nhưng chắc chắn không cần tôi nữa. Bạn bảo giờ bạn muốn học làm người mẹ tốt. Có lẽ bạn đã đổi thói quen, đổi vai, nên phải đổi cả diễn viên quần chúng.
Bạn tôi đã biết chọn đúng vai mà xã hội cần và bạn cũng đủ năng lực thực hiện. Bạn tự điều chỉnh hành vi theo giá trị mà bạn tự chọn, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình. Rõ ràng, sự gắn kết và ổn định xã hội cao hơn hẳn chuyện gặp tôi và nhậu nhẹt bê tha.
Vai người mẹ mà bạn muốn biểu diễn là do bạn lựa chọn, không ai ép. Và bạn diễn để tiệm tiến tới một hình mẫu đẹp. Bạn tôi, dù diễn hay không, đã vô tình trở thành một ví dụ mẫu mực của sự thực hành đạo đức cần thiết trong xã hội hỗn mang hiện tại.
Đó không phải là giả tạo. Mà là quá trình tự giáo dục, tự điều chỉnh và tự kiến tạo bản sắc. Khi một người "diễn" để trở thành người mẹ tốt, họ đang dùng một kịch bản xã hội tích cực để định hướng hành vi theo giá trị mà họ tự chọn. Đó không phải là sự giả dối, mà là một kỹ trị sống giúp bản thể trưởng thành.
.......
Đã 10 năm rồi, khi những câu chuyện Louki, những buổi chiều thư viện với Sartre, gương mặt Selma trong phòng xử án đã nằm yên ở những vệt ký ức riêng rẽ... Tất cả họ - những nhân vật tôi bấu víu vào lúc thanh xuân rạn nứt - đều dẫn tôi đến cùng một vùng mờ mịt: Nơi bản sắc con người không còn là một điểm tựa, mà là một đạo cụ, một lớp sơn, một màn diễn mà ta buộc phải nhảy múa đến cuối đời, dù là trong bóng tối không ai dõi theo.
Phải chờ đến tuổi ba mươi, tôi và nhiều người khác, mới tự hỏi một câu đơn giản mà trơn tuột: Mình là ai giữa tất cả những gì mình từng là?
Câu hỏi ấy thường trồi lên ở những thời khắc bất ngờ: khi đang phơi đồ, rửa bát, khi ngồi trong nhà vệ sinh, hay đơn giản là khi thấy chính bóng mình trong gương và chợt không nhớ lý do vì sao mình chọn cắt tóc kiểu này. Có phải thời khắc choàng tỉnh này là lý do khiến Virginia Woolf tự kết thúc sinh mạng vào một ngày vô nghĩa lý?
Tôi đã mang câu hỏi đó đi từ Quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối, qua thư viện Quốc gia, đến Dancer in the Dark, cả những ly rượu lặng lẽ bên người bạn cũ.
Có lẽ, chúng ta không sống để LÀ” ai cả. Chúng tôi sống để DIỄN một điều gì đó mà chính chúng ta cũng không hiểu rõ, chỉ là một hình tượng để noi theo. Và chính việc không rõ mình đang diễn gì, hay diễn cho ai, khiến bản sắc vừa mờ nhạt vừa rõ nét hơn bao giờ hết.
Jean-Paul Sartre đếch quan tâm lắm đến việc bạn thích màu gì hay cung hoàng đạo của bạn là gì. Ông chỉ quan tâm đến một thứ: Liệu bạn có đang thành thật với sự tự do của mình không. Sartre gọi đó là bad faith, một trạng thái không phải dối trá với người khác, mà là dối trá với chính mình.
Khi người phục vụ cà phê bước đi quá gọn gàng, cúi đầu quá đúng lúc, anh ta không còn đơn thuần là một người làm công: anh ta đã đồng nhất bản thân với vai diễn, như thể "phục vụ" là bản chất cố hữu. Anh ta phủ nhận khả năng trở thành điều gì khác, vì như vậy thì… sẽ phải chọn. Và Sartre tin rằng không có gì làm con người sợ bằng việc phải chọn.
Louki cũng từng đi qua nó, chỉ khác là cô không chịu đeo mặt nạ lâu hơn. Cô rơi xuống, giữa khoảng không của tự do không lối thoát.
Nhưng nếu Sartre quan tâm đến cuộc chiến nội tâm trong một con người, thì Guy Debord lại chỉ ra rằng: Ngay cả khi bạn chưa kịp tự lừa mình, thì xã hội đã làm điều đó giúp bạn rồi.
Trong The Society of the Spectacle, Debord viết rằng thế giới hiện đại đã biến mọi thứ: từ tình yêu đến đau khổ.... thành một chuỗi hình ảnh.
Sự tồn tại thực tế không còn đủ, bạn phải được nhìn thấy, được đọc vị theo một định dạng thị giác nào đó mới được công nhận. Một người buồn thì phải có cốc rượu, một người phụ nữ thành đạt thì phải mặc blazer và ngồi starbucks bên MACBOOK.
Và Selma - người phụ nữ hiền lành đến mức phi lý - chính là hình ảnh không phù hợp với bất kỳ khung nào mà xã hội biết cách xử lý. Một người nhập cư vừa yếu đuối vừa không chịu phản kháng là một nghịch lý: khán giả không biết nên khóc thương hay tức giận. Và khi một con người không còn đọc được bằng biểu tượng, hệ thống chọn cách đơn giản nhất: loại bỏ.
Judith Butler thì không gào thét về hình ảnh hay bản chất. Bà chỉ lặng lẽ chỉ ra rằng: cái mà bạn gọi là TÔI thực ra là một dãy dài những hành vi được lặp đi lặp lại. Không ai sinh ra đã nữ tính hay quyết đoán. chúng ta chỉ học cách bước đi, nói năng, khóc lóc theo mẫu mà xã hội cho phép. Lâu ngày, vai diễn ấy dính chặt vào ta như lớp da thứ hai.
Butler không phán xét việc diễn/perfomance bà chỉ muốn chúng ta nhận ra rằng ta đang diễn. Và từ đó, nếu có thể, hãy chọn kịch bản mình tự tin và tốt đẹp hơn.
Tôi nghĩ về người bạn đã từng uống rượu cùng tôi, từng gọi tên nỗi buồn bằng khói thuốc. Giờ bạn ấy làm mẹ, không uống nữa. Có thể bạn ấy vẫn buồn. Có thể không. Nhưng bạn đã tìm ra một vai diễn mà bạn đủ sức nhập vai, đủ sức lặp lại mỗi ngày. Và hơn hết, bạn tin đó là phiên bản tốt hơn của chính mình.
Con người hiện đại trở nên ngày càng khó duy trì một bản sắc bền vững, khi cả nội tâm, môi trường xã hội và cơ chế hành vi đều kéo bản sắc sang hướng bất ổn, phân mảnh và phụ thuộc. Giữa giao lộ của những trục tư tưởng, những số phận tôi gặp, những cuốn sách tôi đọc, bộ phim tôi xem... Con người tôi bỗng trở nên mỏng như một tấm phim - Chỉ hiện hình khi có ánh sáng chiếu vào.