Trên cao có một mặt trời tỏa sáng, và trong trái tim mỗi người dân Trung Quốc cũng có một mặt trời không kém phần rực đỏ - Mao Trạch Đông. Nhắc tới cái tên Mao Trạch Đông, khắp thế giới cộng sản lẫn thế giới phương Tây chẳng có mấy ai là không biết tới ông. Có người xưng tụng ông là nhà lãnh đạo xuất sắc của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, người đã tự mình tham dự rất nhiều trận mạc trong thời kỳ nội chiến, đã trực tiếp lèo lái đưa Đảng Cộng sản Trung Quốc và các dân tộc Trung Hoa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lại có người không tiếc lời thóa mạ ông vì là kẻ gây ra cuộc cách mạng văn hóa hủy diệt biết bao văn hiến của một lịch sử Trung Nguyên 5000 năm văn vật, là kẻ phát động những chiến dịch cải cách sai lầm khiến cả một vùng Á Đông trải qua nhiều phen khốn đốn đến tận ngày nay… Tuy nhiên, bất kể được khắc họa dưới góc nhìn nào đi nữa, sự nổi tiếng của Mao Trạch Đông là một điều không thể bàn cãi.
Mao Trạch Đông được ví như mặt trời đỏ trong lòng người dân Trung Quốc đại lục
Mao Trạch Đông được ví như mặt trời đỏ trong lòng người dân Trung Quốc đại lục
Vậy, cuộc đời của con người đầy những sự tích quanh mình này đã trải qua những gì mà khiến nhân loại đến nay vẫn còn chưa thể quên được sức ảnh hưởng to lớn, theo cả danh tiếng lẫn tai tiếng đến thế? Cùng mình tìm hiểu về cuộc dời của Mao Trạch Đông thông qua bài viết dưới đây nhé!

1, Thủa thiếu thời

Trái với suy nghĩ của nhiều người rằng một nhân vật lịch sử tầm cỡ như Mao Trạch Đông thì hẳn phải có một tuổi thơ dữ dội, thực tế thì Mao đã trải qua một tuổi thơ “tương đối điển hình" so với những đứa trẻ cùng thời. Nhiều nhà sử học hiện đại nhận xét rằng chính vì lý do này mà các nhà viết tiểu sử trước đây cảm thấy khó "tìm thấy điều gì đó không ổn về cơ bản với Mao ngay từ khi còn nhỏ" mà họ hy vọng có thể giải thích sự phát triển sau này của ông, từ một người sát cánh bên nhân dân trở thành "một bạo chúa cách mạng".
Các ghi chép về tiểu sử của Mao Trạch Đông đều thống nhất rằng ông chào đời ngày 26 tháng 12 năm 1893 trong một gia đình địa chủ ở làng Thiều Sơn, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Gia phả Mao tộc Thiều Sơn khẳng định Mao Thái Hoa là tổ phụ dòng họ. Theo đó, vị Mao tổ này quê gốc Giang Tây, sống vào giai đoạn Nguyên mạt Minh sơ, vì lánh nạn chiến tranh mà tới Hồ Nam an cư, sau đó bằng tài đức mà trở thành chúa đất của vùng.
Cha của Mao Trạch Đông, ông Mao Di Xương xuất thân vốn là nông dân nghèo, từng có thời tòng quân cho tổng đốc Hồ Quảng đời nhà Thanh. Dù gia cảnh nghèo khó, nhưng ông ta vừa có tính cần cù, vừa có đầu óc kinh doanh lại cũng rất tham lam. Sau khi giải ngũ, ông ta tranh thủ kinh doanh ngũ cốc và cho vay nặng lãi vào thời kì đói kém, nhanh chóng vươn lên trở thành một tiểu địa chủ có tiếng trong vùng. Một điểm tốt là dù đã trở nên giàu có, nhưng Mao Di Xương chỉ chung thủy với một bà vợ duy nhất là Văn Thất Muội, người đã chịu gả cho ông lúc nghèo khó. Với bà Văn, Mao Di Xương có ba người con: Mao Trạch Đông, con thứ Mao Trạch Dân (kém Mao Trạch Đông 3 tuổi) và con út Mao Trạch Đàm (kém Mao Trạch Đông tới 12 tuổi). Ngoài ra, ông ta cũng nhận nuôi một cô bé là Mao Trạch Hồng, trạc tuổi đứa con út.
 Khi còn bé, Mao Trạch Đông cùng các em thường xuyên bị cha mắng phạt. Trong hồi ức của Mao, cha ông hiện lên như một người gia trưởng và nghiêm khắc đến quá đáng, thường đánh đập ông và các em vì những lỗi nhỏ nhặt nhất. Ngoài ra, sự tham lam của cha ông cũng khiến Mao Trạch Đông có ấn tượng không tốt với cha mình nói riêng và giới buôn bán nói chung.
Trái ngược với sự khắc nghiệt của chồng, mẹ của Mao Trạch Đông là một người đàn bà siêng năng, thấu cảm và tốt bụng. Khi còn bé, một trong những ấn tượng lớn nhất về mẹ đó là bà tuy không biết chữ nhưng rất sùng đạo. Cái tên đệm “Trạch” (có mang yếu tố nước) được đặt cho ông là vì một đạo sĩ được mời tới xem bói đã phán rằng ông thuộc mệnh khuyết thủy. Người ta còn kể rằng vì Mao Trạch Đông sinh ra vào giờ xấu, nên bà Văn đã nghe lời khuyên của một ni cô, thỉnh Quan Âm Bồ Tát về làm hộ mẫu thần cho ông. Dù vậy, có lẽ vị phật mẫu thần thực sự trong lòng Mao Trạch Đông lại chính là mẹ mình, khi bà thường xuyên bảo vệ anh em ông trước những trận đòn roi của người chagia trưởng.
Do sùng đạo mà bà Văn luôn muốn đứa con trai cả mình lớn lên sẽ tu nghiệp Phật tử. Suốt những năm tháng thơ ấu, Mao Trạch Đông thường xuyên được mẹ dẫn đi lên chùa làm lễ. Ban đầu, Mao Trạch Đông cũng rất ấn tượng với Phật giáo, đặc biệt là sau một lần ông thoát chết trong gang tấc khi bị hổ tấn công. Thế nhưng khi lớn lên, do có chí lớn mà ông cho rằng lối sống của nhà Phật không phù hợp với mình.
Như bao đứa trẻ khác vào thời điểm đó, khoảng 5, 6 tuổi, Mao Trạch Đông bắt đầu được gia đình giao cho phụ giúp việc đồng áng, chủ yếu là canh gia súc và chăn vịt. Lối sống thời thơ ấu đã ăn sâu vào tiềm thức Mao đến mức nhiều thói quen của ông được hình thành trong giai đoạn này sẽ được giữ mãi về sau. Chẳng hạn như ông sẽ không bao giờ quen với việc sử dụng bàn chải đánh răng, mà thay vào đó vẫn giữ thói quen súc miệng bằng trà như cách nông dân địa phương hay làm. Hoặc như việc ông thích tắm rửa bằng cách lau người hơn là bằng xà phòng và nước, một lần nữa phản ánh thói quen của địa phương khi ấy. Một dấu ấn là ẩm thực cay Hồ Nam đã khiến Mao trở thành một tín đồ của các món cay suốt đời.
Năm lên 8, Mao bắt đầu theo học tiểu học ở một ngôi trường làng truyền thống, dành phần lớn thời gian trên lớp đọc thuộc lòng các kinh điển của Nho gia. Dù có phần độc đoán và xa cách, nhưng Mao Di Xương vẫn luôn mong muốn các con của mình nên người. Ông cho rằng chỉ có bằng cách học đạo Thánh hiền thì mới có thể trở thành người thành công trong xã hội sau này. Do đó mà ông đã không tiếc tiền nhờ các thầy giáo kèm cặp cho con trai mình.
Thế nhưng chính sự cố gắng chăm chút cho con trai của Mao Di Xương lại sinh ra phản tác dụng. Khổng Giáo, thứ học thuyết lỗi thời khi ấy vẫn tuân theo cách dạy cổ lỗ sĩ dựa trên việc học thuộc lòng kinh sách, một cách học mà Mao Trạch Đông chán ghét. Vì chán ghét nên Mao Trạch Đông thường xuyên bỏ bê học hành và bị giáo viên “chăm sóc đặc biệt” bằng những trận đòn roi, chẳng khác gì việc cha làm với ông khi trước.
“Tôi đã ghét Khổng Tử từ năm 8 tuổi” - Mao Trạch Đông từng có lần chia sẻ.
Từ tâm lý ấy, Mao Trạch Đông quyết tâm học tập theo một hướng khác. Ông mải mê dùi mài những câu chuyện lịch sử, những tác phẩm văn học nhấn mạnh đến sự phá vỡ khuôn mẫu lỗi thời hoặc đấu tranh cho công lý. Tam Quốc Chí, Thủy hử, Tây Du Ký, Tùy Đường Diễn Nghĩa, Thuyết Nhạc toàn truyện... đều đã trở thành những cuốn sách gối đầu giường của ông.
Theo lời kể sau này của Mao Trạch Đông, chính tại thời điểm này, những gì đọc được đã truyền cho ông một niềm tin mãnh liệt vào việc “thay trời hành đạo”. Ông bắt đầu “thực hành” lối sống trượng nghĩa của mình bằng cách chia sẻ bữa trưa với một cậu bạn nghèo không đủ tiền mua thức ăn. Trong một lần khác, ông đánh nhau với một tên bắt nạt cùng lớp lớn tuổi hơn (và điều này khiến mẹ ông cực kì đau lòng vì bà là một người theo chủ trương “dĩ hòa vi quý” của nhà Phật). Trong một lần khác, khi giáo viên định đánh đòn Mao Trạch Đông thì ông đã tuyên bố bỏ học rồi đi vào trong rừng. Ông ở lì trong đó ba ngày, chỉ đến khi gia đình phải vào rừng tìm kiếm và thuyết phục thì mới chịu về.

2, Tuổi thiếu niên

Tuổi thơ dữ dội của Mao Trạch Đông cứ kéo dài như vậy đến năm ông 13 tuổi. Cảm thấy học hành như thế là đã đủ rồi, cha ông quyết định cho ông về nhà làm quen với nghiệp thương gia của gia đình. Ban đầu, quyết định này của cha khiến Mao Trạch Đông vô cùng vui sướng. Được thoát khỏi môi trường ngột ngạt đã giam giữ mình bao năm qua khiến ông trở nên hào hứng với công việc mới.
Tuy nhiên, niềm vui không kéo dài lâu khi các căng thẳng giữa ông và Mao Di Xương bắt đầu xuất hiện và dần leo thang. Lí do đầu tiên là bởi dù không còn đi học, nhưng ông vẫn tiếp tục đọc sách giải trí khi rảnh rỗi và thường thức tới khuya để làm việc này. Cha ông thì cho rằng đọc những thứ không thiết thực là lãng phí thời gian và tiền bạc nên đã cố gắng khiến ông từ bỏ thói quen này. Lí do thứ hai là Mao Trạch Đông không thích làm việc tay chân. Cha ông, vốn một người đi lên từ nông dân cho rằng đó là biểu hiện của sự lười nhác, ham hưởng thụ và rất phiền lòng về điều này. Lí do thứ ba và cũng quan trọng nhất, đó là quan điểm chính trị của ông không được lòng cha ông. Khi các cuộc khởi nghĩa nổ ra, Mao Trạch Đông đã công khai quan điểm ủng hộ các tổ chức này. Sau đó, khi cha ông bị những nạn dân chết đói - hậu quả của những cuộc khởi nghĩa kia cướp phá kho thóc, Mao tuyên bố hành động của những người này tuy có phần không đúng nhưng cũng phải thông cảm cho hoàn cảnh của họ (đến đây thì bạn hiểu vì sao cha của Mao Trạch Đông lại phát cáu với ông rồi đấy).
Để cho Mao Trạch Đông trưởng thành hơn, đầu năm 1908, cha ông quyết định sắp xếp một cuộc hôn nhân cho ông với La Nhất Tú - một cô gái hơn ông tới bốn tuổi. Dĩ nhiên là Mao Trạch Đông không muốn, nhưng ông cũng vẫn phải nghe theo sự sắp xếp của gia đình. Tuy vậy, sau khi tổ chức đám cưới, ông từ chối ngủ chung với vợ và bỏ nhà đến sống với Văn Vận Xương, một người anh em họ. Ở đó, ông tiếp tục đọc những tác phẩm lịch sử Trung Hoa như Sử ký của Tư Mã Thiên hay Hậu Hán thư của Ban Cố. Đồng thời, ông cũng được tiếp cận với những cuốn sách chính trị luận đương thời của các nhà cải cách và duy tân Trung Quốc nổi tiếng như Phùng Quế Phân, Trần Thiên Hoa. Mao cho rằng chính những cuốn sách này đã tạo nên ảnh hưởng to lớn đối tới tinh thần cách mạng trong tương lai của ông. Lý do là vì sau khi đọc chúng thì ông "cảm thấy chán nản về tương lai của đất nước mình và bắt đầu nhận ra rằng nhiệm vụ của tất cả mọi người là phải cứu lấy nó".
Một bức ảnh Mao Trạch Đông thời thiếu niên.
Một bức ảnh Mao Trạch Đông thời thiếu niên.
Hai năm sau, La Nhất Tú qua đời vì bệnh kiết lỵ. Mùa thu cùng năm, Mao Trạch Đông trở về xin cha cho phép ông theo học tại trường tiểu học Đông Sơn, cách Thiều Sơn 15 dặm. Ông chủ động xin đi học trở lại tại đó là bởi không giống như ở Thiều Sơn, cơ sở này dạy các môn hiện đại như khoa học tự nhiên. Thấy con trai thành tâm hối cải, Mao Di Xương rất vui mừng đồng ý.
Và thế là cậu bé Mao Trạch Đông mười sáu tuổi bắt đầu lên đường đến Đông Sơn cùng với Văn Vận Xương, người cũng đăng ký học ở đó. Ở đó, ông nhanh chóng kết bạn và trở nên thân thiết với Tiêu Tử Thăng và Tiêu San, con của một thầy giáo trong trường. Hai người bạn kể trên sau này sẽ tham gia cùng ông trong phong trào cộng sản và trở thành một trong những người viết tiểu sử đầu tiên của ông. Tuy nhiên, những người khác trong lớp thì thường xuyên cô lập và bắt nạt Mao Trạch Đông vì xuất thân nhà quê của ông.
Dù gặp nhiều khó khăn ở môi trường mới, nhưng Mao Trạch Đông vẫn thành công chứng tỏ thực lực của mình không hề thua kém ai. Ông được giáo viên quý mến nhờ sự chăm chỉ, khả năng nghị luận tốt và đặc biệt là đam mê đọc sách. Tại ngôi trường này, lần đầu tiên ông được học về địa lý và nâng cao kiến ​​thức về lịch sử Trung Quốc cổ đại. Ông cũng bắt đầu đọc về lịch sử nước ngoài, đặc biệt bị ảnh hưởng bởi cuốn sách có tựa đề Những anh hùng vĩ đại của thế giới, qua đó ông được truyền cảm hứng mãnh liệt bởi George Washington va Napoléon Bonaparte, những người nắm giữ khả năng lãnh đạo vượt trội và lòng nhiệt thành dân tộc của họ.

3, Những động thái cách mạng đầu tiên

Năm 1911, sau bảy, tám tháng học tại Đông Sơn, Mao Trạch Đông tiếp tục thuyết phục cha cho phép ông theo học trường trung học cơ sở ở Trường Sa. Lí do cho sự lựa chọn này của ông là bởi Trường Sa khi ấy là "một cái nôi cách mạng". Sự thù địch đối với chế độ quân chủ chuyên chế của Hoàng đế Phổ Nghi đang lan rộng trong quần chúng. Trong khi một số người ủng hộ việc chuyển đổi theo chủ nghĩa cải cách sang chế độ quân chủ lập hiến, hầu hết các nhà cách mạng đều ủng hộ chủ nghĩa cộng hòa. Và người đứng đầu đằng sau phong trào cộng hòa này không ai khác chính là Tôn Trung Sơn, một người theo đạo Cơ đốc được đào tạo ở Mỹ, người lãnh đạo một hội kín được gọi là Trung Quốc Đồng minh Hội.
Tại Trường Sa, Mao Trạch Đông chịu ảnh hưởng của tờ báo của Tôn Trung Sơn là tờ Dân báo. Ông đã háo hức viết bài tiểu luận chính trị đầu tiên của mình và đem dán lên tường trường học. Sau này, Mao Trạch Đông thừa nhận rằng tiểu luận này "có phần lủng củng”. Đại khái, nó liên quan đến ý tưởng của ông về việc thành lập một nước cộng hòa do Tôn Trung Sơn làm tổng thống, nhưng với những nhượng bộ nhất định dành cho những người theo phái ôn hòa bằng cách để Khang Hữu Vi làm thủ tướng và Lương Khải Siêu làm bộ trưởng ngoại giao.
Vào tháng 5 năm 1911, một phong trào đã được phát động ở Trung Quốc để phản đối việc chính quyền nhà Thanh bán quyền đường sắt cho ngoại quốc. Nhân dịp này, Mao Trạch Đông và các bạn cùng lớp của ông đã tham gia nhiệt tình. Như một biểu tượng của sự nổi dậy chống lại Hoàng đế Mãn Châu, Mao Trạch Đông và một người bạn đã cắt bím tóc đuôi sam của mình, trước khi tuyên truyền vận động (và đôi khi là cưỡng chế) cắt bím tóc của một số bạn cùng lớp.
Tháng 10 năm 1911, được truyền động lực từ chủ nghĩa cộng hòa của Tôn Trung Sơn, quân đội đã nổi dậy chống lại hoàng đế trên khắp miền Nam Trung Quốc, dẫn tới Cách mạng Tân Hợi. Trường Sa ban đầu vẫn nằm dưới sự kiểm soát của chế độ quân chủ, với việc thống đốc ban bố thiết quân luật để dập tắt cuộc biểu tình. Khi lữ đoàn bộ binh bảo vệ thành phố đào tẩu theo cách mạng, thống đốc bỏ chạy, để lại thành phố vào tay quân cộng hòa. Ủng hộ cách mạng, Mao Trạch Đông gia nhập quân nổi dậy với tư cách là binh nhì, nhưng vì vài lí do mà ông không được tham gia chiến đấu.
Cuộc cách mạng dần tiến tới hồi kết khi Tôn Trung Sơn - được những người ủng hộ ông tuyên bố là "tổng thống lâm thời" - đã thỏa hiệp với tướng quân chủ Viên Thế Khải để tránh chiến tranh leo thang. Theo đó, chế độ quân chủ sẽ bị bãi bỏ, tạo ra Trung Hoa Dân Quốc, nhưng Viên Thế Khải sẽ trở thành tổng thống. Cách mạng Tân Hợi kết thúc, Mao Trạch Đông cũng thất vọng rời bỏ quân đội cộng hòa. Sáu tháng trong quân ngũ của ông cứ như một quãng thời gian trôi vào vô nghĩa. Cũng trong khoảng thời gian đầy chán chường này, từ một bài báo, ông vô tình khám phá ra thứ sẽ ảnh hưởng to lớn đến vận mệnh cuộc đời ông - chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, đó vẫn là chuyện của sau này, vì lúc này Mao Trạch Đông vẫn chưa xác định được con đường cách mạng cho mình. Ngoài chủ nghĩa cộng sản, ông cũng tiếp tục đọc thêm những tư tưởng khác như các tiểu luận của Giang Kháng Hổ, sinh viên sáng lập Đảng Xã hội Trung Quốc. Tuy nhiên, ông cảm thấy không bị thuyết phục bởi những tư tưởng này.

4, Tiếp tục con đường học vấn

Rời xa quân đội và quay trở lại con đường học vấn, Mao Trạch Đông lần lượt đăng ký vào một số học viện, nhưng sau đó lại quyết định thôi học ngay sau đó. Học cảnh sát, trường sản xuất xà phòng, trường luật và trường kinh tế… đều trở thành những trải nghiệm thoáng qua trong giai đoạn này của ông.
Sau một loạt trường kể trên, Mao Trạch Đông quyết định tới Trường Trung học Trường Sa do chính phủ lâm thời điều hành. Tuy nhiên, chỉ học được một thời gian thì ông cũng sớm rời đi vì nhận thấy cốt lõi của nó là tư tưởng Nho giáo - thứ ông cực kì bài xích. Từ đây, ông cũng quyết định trở thành một nhà nghiên cứu độc lập.
Thực hiện nghiên cứu của mình một cách độc lập, ông dành nhiều thời gian ở thư viện công cộng Trường Sa, đọc các tác phẩm cốt lõi của chủ nghĩa tự do cổ điển như Sự giàu có của các quốc gia của Adam Smith và Tinh thần của pháp luật của Montesquieu, cũng như các tác phẩm của các nhà khoa học và triết học phương Tây như Charles Darwin, JS Mill, Jean-Jacques Rousseau và Herbert Spencer. Tự coi mình là một trí thức, nhiều năm sau ông thừa nhận rằng vào thời điểm này ông nghĩ mình giỏi hơn đại đa số người khi ấy. Lấy cảm hứng từ tác phẩm của Friedrich Paulsen, Mao hình thành quan điểm rằng những cá nhân mạnh mẽ không bị ràng buộc bởi các quy tắc đạo đức mà nên phấn đấu vì những điều tốt đẹp hơn. Nói cách khác, ông tin mục đích là thứ biện minh cho phương tiện.
Sau một thời gian theo dõi việc học hành của Mao Trạch Đông, nhận thấy việc theo đuổi tri thức của con trai mình không có ích lợi gì cho công việc của gia đình, cha ông đã cắt tiền trợ cấp. Từ đây, Mao chính thức xa rời cuộc sống thoải mái bấy lâu. Với nguồn ngân quỹ eo hẹp, ông phải chuyển đến một xóm trọ dành cho người nghèo khổ.
Mong muốn trở thành giáo viên, năm 1912, Mao Trạch Đông đăng ký vào Trường Sư phạm thứ tư của Trường Sa, một trường cao đẳng đào tạo giáo viên có tiêu chuẩn cao nhưng học phí thấp và chỗ ở rẻ. Vài tháng sau, nó sáp nhập với Trường Sư phạm Đầu tiên ở Trường Sa, được nhiều người coi là trường học tốt nhất ở Hồ Nam đương thời. Tại đây, nhờ những đức tính tốt đẹp của mình mà Mao Trạch Đông đã được làm quen và kết thân với Giáo sư Đạo đức Dương Xương Tế, một trí thức có tinh thần cách mạng.
Dương Xương Tế - người vừa là thầy vừa là cha vợ Mao Trạch Đông.
Dương Xương Tế - người vừa là thầy vừa là cha vợ Mao Trạch Đông.
 Giáo sư Dương Xương Tế đã khuyến nghị Mao Trạch Đông đọc một tờ báo cấp tiến tên là Tân Thanh Niên, tác phẩm của Trần Độc Tú, Trưởng khoa Văn học tại Đại học Bắc Kinh và cũng là bạn giáo sư. Mặc dù là một người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, Trần Độc Tú cho rằng Trung Quốc phải nhìn về phương Tây, áp dụng "Ông Dân chủ và Ông Khoa học" để tự xóa bỏ mê tín và chuyên quyền. Những thông tin này nhìn chung rất hợp với tư tưởng của Mao Trạch Đông.
Trong năm học đầu tiên, Mao gặp lại Tiêu Tử Sinh, người bạn từng học cùng trường với ông ở Đông Sơn năm nào. Cả hai nhanh chóng đánh cặp với nhau trong nhiều cuộc chơi, từ những buổi dạo chơi quanh Hồ Nam cho tới viết những câu đối để kiếm tiền và thậm chí đôi lúc là cả hành nghề…  khất thực. Năm 1915, Tiêu Tử Sinh tốt nghiệp, tuy nhiên cả hai vẫn giữ liên lạc đều đặn với nhau. Từ tháng 8 năm 1915 đến tháng 7 năm 1916, Tiêu Tử Sinh và Mao Trạch Đông đã trao đổi thư từ 13 lần, chủ yếu thảo luận về thế cuộc và các sự kiện lớn đương thời.
Là một sinh viên nổi tiếng, Mao Trạch Đông vẫn hoạt động chính trị trong trường học. Nhờ sự chuyên cần của mình mà năm 1915, ông được bầu làm thư ký của Hội sinh viên. Ông đã sử dụng chức vụ của mình để thành lập Hiệp hội Sinh viên Tự quản, dẫn đầu các cuộc biểu tình chống lại những nội quy bất hợp lý của trường. Vào mùa xuân năm 1917, ông được bầu làm chỉ huy đội quân tình nguyện của sinh viên, được thành lập để bảo vệ trường học khỏi sự cướp bóc của quân lính lãnh chúa và bọn cướp. Trong vai trò lãnh đạo, ông đã thể hiện sự sáng suốt của mình khi trang bị cho những đội quân này những giáo tre tạm thời và súng trường bằng gỗ để đe dọa kẻ thù. Hiệu trưởng đương thời Khổng Chiêu Thọ đã có lời nhận khen dành cho ông: "Tất cả giáo viên và học sinh trong trường đều nói: Mao Trạch Đông vô cùng dũng cảm".
Sau những thành công ấy, Mao Trạch Đông gày càng hứng thú với nghệ thuật chiến tranh, thường xuyên theo dõi những diễn biến mới nhất về Thế chiến thứ nhất. Cùng với đó, tinh thần cách mạng của ông cũng dần có sự biến chuyển. Ông bắt đầu phát triển tinh thần đoàn kết với người lao động thay vì chỉ nhắm tới đối tượng trí thức như trước kia. Để thể hiện tinh thần cách mạng, Mao Trạch Đông đã cùng với hai người đồng chí là Tiêu Tử Sinh và Thái Hòa Sâm thực hiện những kỳ tích về sức bền thể chất để làm gương cho mọi người. Sau này, Mao Trạch Đông có kể lại trong niềm tự hào rằng ông xem mình, Tiêu Tử Sinh và Thái Hòa Sâm khi ấy tựa như “Tam Anh” của Tam Quốc Diễn Nghĩa vậy.
Vào tháng 4 năm 1917, Mao Trạch Đông đăng bài viết đầu tiên của mình, "Nghiên cứu về văn hóa thể chất", trên tờ Tân Thanh Niên.  Bài viết hướng dẫn độc giả tăng cường thể lực để phục vụ cách mạng. Sau đó, ông gia nhập Hiệp hội Nghiên cứu Vương Phu Chi, một nhóm cách mạng được thành lập bởi giới văn nhân Trường Sa, những người mong muốn noi gương Vương Phu Chi, một biểu tượng lịch sử cho cuộc kháng chiến của người Hán trước cuộc xâm lược của Mãn Châu. Cũng trong khoảng thời gian này, nhờ sự nổi tiếng của mình trong giới sinh viên mà ông đã thiết lập thành công quy tắc “ba điều không nên nói” trong trường: thứ nhất không nói chuyện tiền bạc, thứ hai không nói chuyện nam nữ, thứ ba không nói chuyện gia đình tầm thường.
Vào tháng 4 năm 1918, cùng với những nhà cách mạng trẻ khác, nhóm “Tam Anh” thành lập tổ chức của riêng mình, lấy tên là Tân Dân Hội. Mục tiêu của hội này tóm gọn trong một khẩu hiệu duy nhất: "đổi mới học thuật, rèn luyện ý thức và nâng cao đạo đức của mọi người". Với mong muốn cách mạng hóa xã hội, Hội đã thu hút được từ 70 đến 80 thành viên, trong đó có một số phụ nữ, nhiều người trong số họ sẽ gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc sau này.
Vào tháng 6 năm 1919, Mao Trạch Đông chính thức tốt nghiệp. Thành tích của ông thuộc dạng cực kì xuất sắc, thuộc top 3 sinh viên tốt nghiệp xuất sắc nhất trong năm đó. Như vậy là kết thúc quãng thời gian 5 năm Mao Trạch Đông theo học tại Đại học Sư phạm số 1 tỉnh Hồ Nam.

5, Chính thức bước chân vào giới cách mạng

Sau khi tốt nghiệp, ngày 15 tháng 8 năm 1918, Mao Trạch Đông rời Trường Sa đến Bắc Kinh, nơi thầy ông là Dương Xương Tế được thuyên chuyển công tác tới. Sau khoảng 1 tháng, thầy Dương đã giới thiệu ông đảm nhận vị trí trợ lý cho thủ thư trường đại học Lý Đại Chiêu, người sau này sẽ trở thành một trong những Đảng viên Cộng sản Trung Quốc thời kỳ đầu. Sự tác động của ông Lý có lẽ đã phần nào ảnh hưởng tới con đường cách mạng sau này của Mao Trạch Đông. Do tính chất công việc, ông thường được Lý Đại Chiêu giao cho đọc các tài liệu về chủ nghĩa Marx. Đồng thời, thi thoảng ông cũng phải tham gia các cuộc thảo luận sinh viên do ông Lý tổ chức. Những cuộc thảo luận này bàn về nhiều xu hướng tư tưởng mới của thế giới và Trung Quốc, cung cấp cho Mao Trạch Đông thêm nhiều góc nhìn mới từ vi mô đến vĩ mô. Cũng trong khoảng thời gian này, Mao Trạch Đông và con gái của thầy Dương là Dương Khai Tuệ đã trở thành bạn thân và dần nảy sinh tình cảm với nhau.
Trở nên "ngày càng cấp tiến", Mao Trạch Đông ban đầu bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi chủ nghĩa vô chính phủ của Peter Kropotkin, học thuyết cấp tiến nổi bật nhất thời đó. Những người theo chủ nghĩa vô chính phủ Trung Quốc, chẳng hạn như Thái Nguyên Bồi, Hiệu trưởng Đại học Bắc Kinh, kêu gọi một cuộc cách mạng xã hội toàn diện trong các mối quan hệ xã hội, cơ cấu gia đình và sự bình đẳng của phụ nữ, thay vì sự thay đổi đơn giản trong hình thức chính phủ như các nhà cách mạng trước đó. Mao Trạch Đông tỏ ra rất ấn tượng với những lời kêu gọi này. Khi một số bạn bè của ông đã tham gia dự án Mouvement Travail-Études do phe vô chính phủ tổ chức để sang Pháp du học, Mao Trạch Đông ban đầu muốn tham gia nhưng do tiếng Pháp không tốt nên đã từ chối. Tuy vậy, để ủng hộ, ông đã tích cực cổ động gây quỹ cho dự án.
Ngày 25 tháng 1 năm 1919, Hội Nghiên cứu Triết học Đại học Bắc Kinh được thành lập, Mao Trạch Đông tới dự thính các khóa học tại Đại học Bắc Kinh. Tới ngày 19 tháng 2, Mao Trạch Đông lại tham dự thêm cuộc họp tái tổ chức Hội Nghiên cứu Báo chí Đại học Bắc Kinh. Sau đó, ông tiếp cận được với Thiệu Phiêu Bình, chủ tịch tờ Tin tức Bắc Kinh, tại khóa học "Lý thuyết và thực hành báo chí" do người này chủ trì. Sau đó, ông đã đến thăm ông Thiệu nhiều lần và nhận được sự hỗ trợ tài chính tương đối đáng kể.
Một bức ảnh chân dung Mao Trạch Đông được chụp ảnh vào năm 1919.
Một bức ảnh chân dung Mao Trạch Đông được chụp ảnh vào năm 1919.
Vào ngày 12 tháng 3, nhận được tin mẹ đổ bệnh nặng, Mao Trạch Đông rời Bắc Kinh để trở về Hồ Nam. Tuy nhiên, trên đường, ông quyết định đổi hướng tới Thượng Hải để tiễn những du học sinh của hội vô chính phủ đang chuẩn bị lên tàu sang Pháp. Dọc đường, ông bị kẻ gian trộm mất sạch tiền nhưng may mắn đã có người bỏ tiền giúp đỡ ông tới nơi kịp lúc. Ngày 15 tháng 3, Mao Trạch Đông tham dự bữa tiệc chia tay sinh viên du học Pháp do Hiệp hội sinh viên Trung Quốc toàn cầu tổ chức tại Thượng Hải.
Sau khi tiễn các bạn lên đường tìm đường cứu nước, ngày 6 tháng 4, Mao Trạch Đông từ Thượng Hải trở về Trường Sa thăm mẹ. Đó chỉ là một cuộc gặp ngắn ngủi, nhưng ông đã đích thân phục vụ và nấu cho bà một ít thuốc sắc. Sau đó, ông tới gặp mặt trực tiếp các thành viên cốt cán của Tân Dân Hội tại Hồ Nam để chủ trì công việc. Nhằm giải quyết vấn đề tiền bạc trong cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng tại đây, Mao Trạch Đông xin vào làm việc trường Tiểu học Trường Sa. Tại đây, ông phụ trách dạy các lớp lịch sử. Ngoài giờ làm việc ông, ông cũng tranh thủ cùng Tân Dân Hội bắt liên hệ với giới báo chí và các sinh viên trẻ có tinh thần cách mạng trong vùng.

6. Phong trào Ngũ Tứ

Vào ngày 4 tháng 5 năm 1919, phong trào Ngũ Tứ bùng nổ tại Bắc Kinh, gây chấn động toàn Trung Quốc. Tin tức về phong trào lan đến Hồ Nam, Mao Trạch Đông lập tức liên lạc với các thành viên của Tân Dân Hội, học sinh chủ chốt của các trường, đại diện báo chí và giới giáo dục để trao đổi quan điểm và đề xuất đề xuất phát động phong trào yêu nước ở Hồ Nam; Vào giữa tháng 5, Liên đoàn Sinh viên Bắc Kinh cử Đặng Trung Hạ đến Hồ Nam để giới thiệu tình hình phong trào sinh viên Bắc Kinh với Mao Trạch Đông và những người khác, đồng thời thảo luận về việc khôi phục và tổ chức lại của Liên đoàn Sinh viên Hồ Nam ban đầu.
Ngày 28 tháng 5, Liên đoàn sinh viên Hồ Nam mới được thành lập dưới sự lãnh đạo Bành Hoàng, một thành viên của Tân Dân Hội và được cố vấn bởi chính Mao Trạch Đông. Một cuộc biểu tình quy mô lớn của sinh viên Hồ Nam sau đó nổ ra. Tạp chí cấp tiến hàng tuần phục vụ phong trào, Tương Giang Tạp chí cũng được Mao Trạch Đông ra mắt. Trong tạp chí, ông viết nhiều bài viết ủng hộ sự cần thiết của một "Đại liên hiệp quần chúng nhân dân" và củng cố các công đoàn có khả năng tiến hành cách mạng bất bạo động. Tất nhiên, ý tưởng này của Mao Trạch Đông khi ấy không thực sự liên quan gì tới chủ nghĩa Marx, mà là từ khái niệm tương trợ của Kropotkin. Dù vậy, ý tưởng của ông và chủ nghĩa Marx mà ông theo sau này vẫn có những sự tương đồng nhất định, tạo tiền đề cho sự chuyển đổi trong tư tưởng về sau này.
Vào mùa thu năm 1919, Mao Trạch Đông tổ chức một hội thảo tại Trường Sa nghiên cứu các vấn đề kinh tế và chính trị, cũng như các cách thức đoàn kết nhân dân, tính khả thi của chủ nghĩa xã hội và các vấn đề liên quan đến Nho giáo. Trong thời kỳ này, ông tham gia vào công tác chính trị với những người lao động chân tay, thành lập các trường học ban đêm và công đoàn. Tới tháng 12 năm 1919, Mao giúp tổ chức một cuộc tổng đình công ở Hồ Nam và đạt được một số yêu sách, nhưng Mao Trạch Đông và các thủ lĩnh sinh viên khác cảm thấy bị Thống đốc Hồ Nam là Trương Kính Nghiêu đe dọa tới tính mạng. Mao Trạch Đông sau đó trở về Bắc Kinh tạm lánh. Tranh thủ dịp này, ông cũng tới thăm thầy Dương Xương Tế, lúc đó đang bị bệnh nan y.
 Trong thời gian tạm lánh, các bài báo của Mao Trạch Đông dần thu được kết quả khả quan. Hầu hết trong số chúng đều đã đạt được mức độ nổi tiếng trong phong trào cách mạng, và Mao Trạch Đông quyết định bắt đầu kêu gọi ủng hộ việc lật đổ Thống đốc Trương.
Tuy bị cấm đoán gắt gao, nhưng Mao Trạch Đông và hội nhóm của mình vẫn hoạt động một cách tích cực. Ngày 18 tháng 6 năm 1920, Mao Trạch Đông đăng bài Quyền tự quyết của người Hồ Nam trên tờ Thời sự tân báo của Thượng Hải. Trong đó, ông có viết: “Sự suy đồi của xã hội và sự suy đồi của dân tộc không thể được làm sáng tỏ cũng như loại bỏ, trừ khi chúng bị nhổ tận gốc rễ bằng những nỗ lực to lớn. Loại trách nhiệm này là trách nhiệm của người dân cả nước chứ không phải trách nhiệm của một số quan chức, chính trị gia, quân nhân... Vận mệnh Hồ Nam phải do toàn thể người dân Hồ Nam quyết định". Ngày 3 tháng 9 cùng năm, Mao Trạch Đông lại tiếp tục đăng bài "Các vấn đề cơ bản của các vấn đề xây dựng Hồ Nam - Cộng hòa Hồ Nam" trong chuyên mục "Các vấn đề xây dựng Hồ Nam" mới trên tờ "Đại Công Báo" của Trường Sa. Trong bài báo, ông nêu lên quan điểm của mình: "Còn Trung Quốc thì sao? Nó cũng đã thức tỉnh (ngoại trừ các chính trị gia, quan chức và quân phiệt). Kinh nghiệm 9 năm cộng hòa giả tạo và các cuộc đại chiến đã buộc người dân phải thức tỉnh và nhận ra rằng công cuộc xây dựng đất nước nói chung là hoàn toàn vô vọng trong khoảng thời gian này, cách tốt nhất đơn giản là không quy hoạch xây dựng tổng thể mà phải chia nhỏ quy hoạch xây dựng từng tỉnh, thực hiện “quyền tự quyết của người dân mỗi tỉnh”. Các khu hành chính đặc biệt và hai thái ấp, tổng cộng có hai mươi bảy địa điểm, tốt nhất nên chia thành hai mươi bảy quốc gia.”
Mao sau đó đến thăm Thiên Tân, Tế Nam và Khúc Phụ, trước khi chuyển đến Thượng Hải, nơi ông làm thợ giặt và gặp Trần Độc Tú. Sau này, mỗi khi nhớ lại quãng thời gian quý báu ấy, Mao Trạch Đông vẫn luôn ca ngợi việc ông Trần áp dụng chủ nghĩa Marx đã gây ấn tượng sâu sắc với mình". Cũng tại Thượng Hải, Mao Trạch Đông gặp lại người thầy cũ của mình, Dịch Bồi Cơ, lúc ấy đã là một nhà cách mạng có tiếng tăm và là thành viên của Đảng Quốc dân Trung Quốc. Khi đó, đảng đang ngày càng nhận được sự ủng hộ và ảnh hưởng. Nhờ quan hệ tốt với thầy, Mao Trạch Đông đã dược họ Dịch giới thiệu với Tướng Đàm Diên Khải, một thành viên cấp cao của Quốc Dân Đảng, người có được lòng trung thành của lực lượng quân đội đang đóng dọc biên giới Hồ Nam với Quảng Đông. Tướng Đàm khi ấy đang có kế hoạch lật đổ Thống đốc Trương. Chí lớn gặp nhau, Mao Trạch Đông đã hỗ trợ tướng Đàm không thể nhiệt tình hơn nữa bằng cách tổ chức các sinh viên Trường Sa tham gia cuộc nổi dậy. Tháng 6 năm 1920, tướng Đàm dẫn quân vào Trường Sa, buộc Thống đốc Trương phải bỏ chạy. Trong cuộc tái tổ chức chính quyền tỉnh sau đó, nhờ có những đóng góp to lớn của mình mà Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng khối cơ sở của Trường Sư phạm Đầu tiên. Bây giờ nhận được một khoản thu nhập lớn, ông lập tức kết hôn với Dương Khai Tuệ vào mùa đông năm 1920.

7. Bước ngoặt trên con đường chính trị

Cuối năm 1920, bước ngoặt trên con đường cách mạng của Mao Trạch Đông đã đến. Trước đó, trong quãng thời gian đi lại giữa các tỉnh, ông đã tình cờ đọc được tác phẩm văn học Marxist mới nhất được dịch sang tiếng Trung - đặc biệt là Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bản nguyên nghĩa. Những tác phẩm ấy đã khiến ông ngày càng chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa cộng dản. Nhưng do duy trì quan điểm chiết trung nên Mao Trạch Đông vẫn chưa thực sự ngả hẳn về phía quốc tế cộng sản. Dù vậy, theo xu thế xã hội bấy giờ, ông vẫn tham gia thành lập Nhóm Cộng sản Trường Sa và Đoàn Thanh niên Xã hội Chủ nghĩa Trường Sa.
Ngoài khuyến học, Mao Trạch Đông vẫn tiếp tục tổ chức các cuộc đình công chống lại chính quyền hà khắc của Thống đốc Hồ Nam đương nhiệm là Triệu Hằng Thích. Theo ghi nhận từ nhiều nguồn tư liệu, Mao Trạch Đông khi ấy không chỉ huy động thợ mỏ ở mỏ An Viễn đình công mà còn thành lập trường học, hợp tác xã và thu hút trí thức địa phương, quý tộc, sĩ quan quân đội, thương gia, dân giang hồ rồi thậm chí cả giáo sĩ nhà thờ tham gia cùng. Sự thành công trong tổ chức chính trị của Mao ở mỏ An Viễn dẫn đến việc Trần Độc Tú mời ông trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản sau này.
Tuy nhiên, khi Đại hội lần thứ hai của Đảng Cộng sản ở Thượng Hải vào tháng 7 năm 1922 diễn ra, Mao Trạch Đông lại không tham gia. Theo tuyên bố của Mao Trạch Đông, ông không tới vì… để lạc mất địa chỉ. Dù vậy, sự vắng mặt của ông không quá ảnh hưởng tới vị trí của ông vì ngay sau cuộc họp, ông đã được giao cho một trọng trách quan trọng: trở thành một trong những đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt tay hợp tác với Quốc dân Đảng Trung Quốc.

9. Hợp tác với Quốc dân Đảng

Áp dụng lời khuyên của Lenin, các đại biểnu của Đại hội lần thứ hai của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thống nhất chủ trương liên minh với "các nhà dân chủ tư sản" của Quốc Dân Đảng vì lợi ích của "cách mạng dân tộc". Các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc nổi bật nhất được giao nhiệm vụ gia nhập Quốc Dân Đảng với hy vọng thúc đẩy và định hướng nền chính trị của đảng này sang cánh tả. Mao nhiệt tình đồng ý với quyết định này, lập luận về một liên minh giữa các tầng lớp kinh tế xã hội của Trung Quốc, và cuối cùng trở thành người đứng đầu tuyên truyền của Quốc Dân Đảng.
Ngoài tuân theo chỉ thị hợp tác của Quốc tế Cộng sản, một trong những mục tiêu của Mao Trạch Đông khi tham gia vào các hoạt động của Quốc dân Đảng, đó là gây dựng sức ảnh hưởng nhằm hỗ trợ Tôn Trung Sơn, người mà ông cho rằng có thể làm nên đại nghiệp, tổ chức lại Quốc dân đảng Trung Quốc. Tháng 9 năm 1922, Mao Trạch Đông gia nhập Quốc dân đảng Trung Quốc và giữ vai trò thành viên cốt cán cho đến khi "Sự kiện 15 tháng 7" nổ ra vào năm 1927. Hồ Hán Dân và Vương Tinh Vệ sau đó từng tiến cử Mao Trạch Đông cho Tôn Trung Sơn. Nhờ vào tài năng lãnh đạo thiên bẩm của mình, Mao Trạch Đông sau đó thăng tiến một cách thuận buồm xuôi gió, được bầu làm ủy viên điều hành dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất và lần thứ hai của Quốc dân đảng.
Tháng 6 năm 1923, Mao Trạch Đông tới Quảng Châu dự Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng Cộng sản Trung Quốc và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Tháng 2 năm 1924, tại Đại hội Quốc dân đảng lần thứ nhất tổ chức ở Quảng Châu đầu năm 1924, Mao được bầu làm Bí thư Ban Tổ chức Ban Chấp hành Thượng Hải Quốc dân đảng Trung Quốc và đưa ra bốn nghị quyết phân cấp quyền lực cho các cơ quan thành thị và nông thôn. Như vậy là trong giai đoạn này, Mao Trạch Đông đã giữ các chức vụ quan trọng trong cả hai đảng Cộng sản và Quốc dân. Cũng vì lí do này mà Ma Trạch Đông đã bị một số thành viên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc quan ngại, đặc biệt là nhà cách mạng lão thành Lý Lập Tâm. Như một cách để chứng minh cho sự trong sạch của mình, Mao Trạch Đông vẫn duy trì đóng góp tích cực cho cả hai đảng này. Tới tháng 12 cùng năm, do làm việc quá sức, Mao Trạch Đông lâm bệnh và phải trở về Hồ Nam để tĩnh dưỡng.
Trong thời gian tĩnh dưỡng, Mao Trạch Đông nhận thấy giai cấp nông dân đang ngày càng bất bình và một số đã chiếm đoạt đất đai của các địa chủ giàu có để thành lập công xã. Điều này đã thuyết phục ông về tiềm năng cách mạng của giai cấp nông dân. Có một sự thật thú vị đó là ý tưởng tận dụng sức mạnh của giai cấp nông dân lại được những người cánh tả Quốc dân đảng ủng hộ chứ không phải những người Cộng sản đương thời. Vào mùa đông năm 1925, Mao trốn sang Quảng Châu sau khi các hoạt động cách mạng của ông thu hút sự chú ý của chính quyền quân phiệt Hồ Nam. Tại đây, ông điều hành Học viện Huấn luyện Phong trào Nông dân của Quốc dân đảng khóa thứ 6 từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1926. Học viện dưới thời Mao đã đào tạo ra một lượng lớn cán bộ có năng lực, đóng góp không nhỏ những chiến dịch về sau.
Khi lãnh đạo đảng Tôn Trung Sơn qua đời vào tháng 3 năm 1925, vai trò lãnh đạo Quốc dân Đảng được giao cho Tưởng Giới Thạch. Chỉ hai tháng sau khi nắm quyền, Tưởng Giới Thạch đã cắt giảm đáng kể quyền lực của những thành phần cánh tả trong Quốc Dân Đảng và hạn chế sức ảnh hưởng của những đồng minh Cộng sản. Dù thế, Mao Trạch Đông vẫn ủng hộ Quân đội Cách mạng Quốc gia của Tưởng Giới Thạch.
Sau Phong trào 30 tháng 5 năm 1925, Mao Trạch Đông và những người khác lấy khẩu hiệu “Đả đảo ngoại bang, rửa sạch quốc nhục” làm khẩu hiệu, lấy các hợp tác xã nông nghiệp bí mật làm nòng cốt tại hơn 20 ngôi làng ở Thiệu Sơn như một thí điểm cơ bản cho phương pháp cách mạng dân tộc. Vào giữa tháng 6, Mao Trạch Đông và những người khác đã thành lập chi bộ Thiệu Sơn của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 28 tháng 8 cùng năm, Thống đốc Hồ Nam là Triệu Hằng Thích ra lệnh cho Cục Phòng vệ Đoàn Thanh niên huyện Tương Đàm truy bắt Mao Trạch Đông nhưng Mao Trạch Đông đã trốn thoát được. Tới tháng 9, Uông Tinh Vệ, Chủ tịch Chính phủ Quốc gia, do bận công việc chính phủ và không thể giữ chức Bộ trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương của Quốc dân đảng Trung Quốc nên đã tiến cử Mao Trạch Đông làm Quyền Bộ trưởng Tuyên truyền vào ngày 5 tháng 10.
Ngày 28 tháng 1 năm 1926, Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch lần đầu tiên tiếp xúc trực tiếp tại Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Quốc dân đảng. Mao Trạch Đông báo cáo nghị quyết của Ủy ban xét duyệt tuyên truyền và được bầu làm Ủy viên chấp hành dự khuyết Trung ương còn Tưởng đưa ra đề xuất cải thiện đời sống kinh tế của binh lính và được bầu làm Ủy viên Chấp hành Trung ương. Ngày 19 tháng 3 cùng năm, Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm giám đốc Hội thảo Phong trào Nông dân Quốc dân Đảng lần thứ sáu. Trong nhiệm kỳ của mình, Mao Trạch Đông đã đào tạo một số lượng lớn trụ cột của phong trào nông dân cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 25 tháng 5 cùng năm, Mao Trạch Đông từ chức Quyền Bộ trưởng Tuyên truyền do chấn chỉnh công tác đảng.
Tháng 7 năm 1926, chiến dịch Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động chính thức bắt đầu. Cùng với đó, các cuộc bạo động của tầng lớp nông dân theo lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng bùng nổ tại nhiều nơi. Tuy nhiều cuộc bạo động của nông dân đã hỗ trợ cho công cuộc Bắc phạt của Quốc dân Đảng, nhưng cũng có trường hợp những cuộc bạo động này diễn ra theo chiều hướng tiêu cực khi nhiều địa chủ đã bị tàn sát dã man cũng như gây ra nhiều thiệt hại vật chất không đáng có. Những cuộc bạo động như vậy đã khiến một số nhân vật cấp cao của Quốc dân Đảng, những người vốn là địa, tức giận và gây ra sự bất hòa sâu sắc giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hệ quả là sự chia rẽ giai cấp và ý thức hệ ngày càng tăng trong phong trào cách mạng, báo hiệu một cuộc nội chiến sắp sửa đến gần.

9. Nội chiến Quốc - Cộng lần thứ nhất

Tháng 11 năm 1926, Mao Trạch Đông tới Thượng Hải giữ chức Bí thư Ủy ban Phong trào Nông dân Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tới tháng 3 năm 1927, Mao Trạch Đông tham gia Hội nghị Trung ương 3 của Ban Chấp hành Trung ương Quốc Dân Đảng ở Vũ Hán. Khi đó, những thành viên Quốc dân Đảng tại đây đang lên kế hoạch tước bỏ quyền lực của Tưởng bằng cách bổ nhiệm Uông Tinh Vệ làm lãnh đạo. Mao Trạch Đông tích cực đóng góp cho hội nghị, đặc biệt là trong vai trò điều hành các cuộc thảo luận liên quan đến vấn đề nông dân. Ông cũng tham gia bảo vệ "Quy định trấn áp cường hào địa phương và tầng lớp thế gia", ủng hộ án tử hình hoặc tù chung thân đối với bất kỳ ai bị kết tội phản động, lập luận rằng trong tình hình cách mạng "các biện pháp ôn hòa là không đủ".
Vào tháng 4 năm 1927, Mao Trạch Đông được bổ nhiệm vào Ủy ban Đất đai Trung ương của Quốc dân Đảng. Ông kêu gọi nông dân từ chối trả tiền thuê đất cho các thế lực địa chủ và chính quyền quân phiệt. Ông cũng dẫn đầu một nhóm khác cùng nhau đưa ra "Dự thảo Nghị quyết về vấn đề đất đai", trong đó kêu gọi tịch thu đất đai của "cường hào địa phương và tầng lớp thế gia, quan chức tham nhũng, quân phiệt và tất cả các phần tử phản động trong làng". Tiến hành chiến dịch "Khảo sát đất đai", ban đầu ông ấn định rằng bất kỳ ai sở hữu trên bốn mẫu rưỡi (khoảng 13% số người được khảo sát) thì đều là phản động. Dù vậy, về sau ông có tuyên bố bổ sung rằng có sự khác biệt lớn về mức độ nhiệt tình cách mạng trên khắp Trung Quốc và cần có một chính sách phân chia lại đất đai linh hoạt. Trình bày kết luận của mình tại cuộc họp Ủy ban Đất đai Mở rộng, nhiều người bày tỏ sự dè dặt trước những đề xuất của Mao Trạch Đông: một số tin rằng nó đã đi quá xa, còn những người khác thì lại cho rằng nó chưa đủ quyết liệt. Kết quả là những đề xuất của ông chỉ được thực thi một phần.
Lại nói, sau thành công của cuộc Bắc phạt, Tưởng Giới Thạch nhanh chóng quay lưng lại với những người Cộng sản, hiện lên tới hàng chục nghìn người trên khắp Trung Quốc. Ông ta phớt lờ mệnh lệnh của chính phủ Quốc Dân Đảng có trụ sở tại Vũ Hán và hành quân đến Thượng Hải, một thành phố do lực lượng dân quân Cộng sản kiểm soát. Ngày 12 tháng 4, khi những người Cộng sản chờ đợi sự xuất hiện của Tưởng Giới Thạch như một đồng minh thì ông ta bất ngờ thực hiện một cuộc tấn công đẫm máu vào thành phố với sự hỗ trợ của tổ chức ngầm Thanh Bang. Cuộc tấn công, sau này còn được biết đến với cái tên Bạch sắc khủng bố, đã khiến hơn 5000 người chết và nhiều người bị thương. Sự kiện này đánh dấu mối quan hệ đồng minh giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức tan vỡ.
Ngày 18 tháng 4 tổng cộng có 193 người trong đó có Mao Trạch Đông và những người cộng sản khác và những người cánh tả Quốc dân đảng bị đưa vào Lệnh truy nã số 1 của Chính phủ Quốc gia Nam Kinh. Tính tới tháng 5 năm 1927, hàng chục nghìn người Cộng sản và những người bị nghi ngờ là cộng sản đã bị Tưởng Giới Thạch tiễu trừ. Chỉ trong một tháng, Đảng Cộng sản Trung Quốc mất khoảng 15000 trong số 25000 thành viên của mình, một con số lớn tới mức khủng khiếp.
Mao Trạch Đông may mắn thoát khỏi Bạch sắc khủng bố. Ban đầu, ông và nhiều đồng chí khác trong Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục ủng hộ chính quyền Quốc Dân Đảng tại Vũ Hán, nhưng đến Đại hội lần thứ 5 của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào cuối tháng 4 - đầu tháng 5 năm 1927, ông đã thay đổi quan điểm và quyết định đặt hết hy vọng vào lực lượng dân quân nông dân. Đây có vẻ là một quyết định đúng đắn vì chỉ sau đó ít lâu, vào ngày 15 tháng 7, Tưởng Giới Thạch đã nắm được toàn bộ chính quyền, chiến tranh Bắc phạt chấm dứt. Ngay sau đó, Quốc dân Đảng đã trục xuất tất cả những người Cộng sản.
Trước tình hình đó, những người Cộng sản Trung Quốc rút lui về vùng nông thôn hoạt động bí mật, chuẩn bị cho nổi dậy. Ngày 7 tháng 8 năm 1927, Hội nghị ngày 7 tháng 8 được tổ chức bí mật tại Hán Khẩu, Mao Trạch Đông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị lâm thời Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tại đây, ông đưa ra tuyên bố rằng "quyền lực đến từ nòng súng". Đảng Cộng sản Trung Quốc sau đó thành lập Hồng quân Công nhân và Nông dân Trung Quốc, hay được gọi tắt là "Hồng quân", để chiến đấu với Tưởng Giới Thạch. Ngày 9 tháng 8 cùng năm, cuộc họp đầu tiên của Bộ Chính trị lâm thời Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định cho Mao Trạch Đông về Hồ Nam với tư cách Ủy viên Trung ương Đặc biệt để truyền tải tinh thần của Hội nghị ngày 7 tháng 8, tổ chức lại Tỉnh ủy Hồ Nam và lãnh đạo Cuộc khởi nghĩa Vụ gặt Mùa thu sẽ diễn ra tại Trường Sa, Hồ Nam.
Đầu tháng 9 năm 1927, Mao Trạch Đông thành lập Sư đoàn 1 của Quân đội cách mạng công nông 1. Đến ngày 9 tháng 9, Cuộc khởi nghĩa Vụ gặt Mùa thu nổ ra. Vào đêm trước cuộc tấn công, Mao Trạch Đông đã sáng tác một bài thơ, có lẽ là bài thơ còn được ghi lại sớm nhất của ông, có tựa đề “Trường Sa”. Kế hoạch của ông là dùng 4 trung đoàn tấn công thành phố Trường Sa từ ba hướng vào ngày 9 tháng 9, nhưng Trung đoàn 4 đã đào ngũ theo phe Quốc dân đảng, tấn công Trung đoàn 3. Quân của Mao Trạch Đông tiến tới Trường Sa nhưng không thể chiếm địa lợi nên phải chịu tổn thất nặng nề. Đến ngày 15 tháng 9, ông chấp nhận thất bại và cùng với 1000 tàn quân quân du kích còn sống sót hành quân về phía đông đến dãy núi Tĩnh Cương Sơn, nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hồ Nam và Giang Tây.
Đầu năm 1928, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra lệnh cho quân đội của Mao tiến công vào miền nam Hồ Nam. Mao nghi ngờ phương án này vì thực lực của hai phe quá chênh lệch, nhưng vẫn quyết định làm theo. Hậu quả là khi quân đội của Mao Trạch Đông đến được Hồ Nam, họ bị Quốc dân đảng tấn công và phải rút chạy với những tổn thất nặng nề. Quân đội Quốc dân Đảng sau đó tấn công Tĩnh Cương Sơn và chiếm được căn cứ này. Ngay sau đó, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, lúc này đang ẩn náu ở Thượng Hải, đã quyết định cách chức Mao Trạch Đông khỏi các vị trí quan trọng trong Đảng như một hình phạt cho “chủ nghĩa cơ hội quân sự”. Họ cho rằng ông đã sai lầm khi tập trung vào hoạt động ở nông thôn và quá khoan dung với giới thượng lưu phản động. Những người Cộng sản có quan điểm bảo thủ hơn đặc biệt coi nông dân là lạc hậu và chế nhạo ý tưởng huy động nông dân của Mao Trạch Đông. Mỉa mai là dù vậy, họ vẫn đã áp dụng ba chính sách mà ông đã ủng hộ từ lâu: thành lập ngay các hội đồng công nhân, tịch thu toàn bộ đất đai mà không được miễn trừ, và phủ nhận tính chính danh của Quốc Dân Đảng.
Phản ứng của Mao Trạch Đông trước các động thái từ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc là phớt lờ họ. Ông tiếp tục kế hoạch tái chiếm Tĩnh Cương Sơn của mình. Khoảng ngày 24 tháng 4 năm 1928, Mao Trạch Đông dẫn trung đoàn đầu tiên quay trở lại Long Thành, Ninh Cương và gặp quân của Chu Đức và Trần Nghị đã đến Long Thành hai ngày trước đó. Hai đội quân này hợp nhất thành Quân đoàn 4 công nông, do Chu Đức làm Quân đoàn trưởng còn Mao Trạch Đông đóng vai trò đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong quân. Đây cũng chính là tiền thân của Hồng quân Trung Quốc về sau và Mao Trạch Đông vẫn tiếp tục góp phần xây dựng lực lượng cho quân đội này.
Quân đoàn 4 công nông sau đó đã giao chiến với quân đội Quốc dân Đảng trong vài tuần và tái chiếm thành công một số vùng nông thôn của Tĩnh Cương Sơn. Mặc dù chủ trương tịch thu tài sản địa chủ, thế gia trong khu vực để phân chia lại đất đai, nhưng Mao Trạch Đông cũng đảm bảo rằng không có vụ thảm sát nào xảy ra trong khu vực và theo đuổi cách tiếp cận khoan dung hơn so với cách mà Ủy ban Trung ương ủng hộ. Rất ít địa chủ, thế gia trong khu vực Mao Trạch Đông kiểm soát phải chịu án cải tạo hoặc tử hình. Ngoài việc phân chia lại đất đai, ông còn thúc đẩy xóa mù chữ và các mối quan hệ tổ chức không phân cấp ở Tĩnh Cương Sơn, làm thay đổi đời sống kinh tế và xã hội của khu vực và thu hút nhiều người ủng hộ địa phương.
Ngoài đảm bảo ổn định đời sống cho người dân trong khu vực, Mao Trạch Đông cũng tập trung gây dựng lực lượng quân đội. Do tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng, ông đã đưa ra tuyên bố “ngay cả người què, người điếc và người mù đều có thể có ích cho cuộc đấu tranh cách mạng”. Ông tăng cường quân số, thu nạp hai băng đảng địa phương vào quân đội của mình, xây dựng lực lượng khoảng 1800 quân. Ông đặt ra các quy tắc cho binh lính của mình: nhanh chóng tuân theo mệnh lệnh, tất cả tài sản tịch thu phải được chuyển cho chính phủ, và không được tịch thu bất cứ thứ gì từ những nông dân nghèo. Khi làm như vậy, ông đã rèn luyện người của mình thành một lực lượng chiến đấu có kỷ luật và hiệu quả.
Ngày 20 tháng 5 năm 1928, được sự chấp thuận của Tỉnh ủy Giang Tây Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch Đông chủ trì Đại hội đầu tiên của Đảng Biên giới Hồ Nam-Giang Tây ở Mậu Bình, Ninh Cương, Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm Bí thư Ban Đặc biệt Biên giới Hồ Nam-Giang Tây của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau đó, ông đã viết “Tại sao Chế độ Đỏ của Trung Quốc có thể tồn tại?” và các tác phẩm nghị luận khác để đề xuất ý tưởng chiến lược là thành lập các khu căn cứ nông thôn, xung quanh các thành phố với khu vực nông thôn, và cuối cùng chiếm giữ các thành phố. Cũng trong thời gian này, ông kết hôn với Hạ Tử Trân, một nữ đồng chí tại địa phương. Đáng nói là khi kết hôn, ông vẫn chưa hề li hôn với người vợ Dương Khai Tuệ của mình.
Suốt nửa cuối năm 1928, quân đội Quốc dân Đảng tiếp tục thực hiện nhiều chiến dịch bao vây tấn công nhằm tiêu diệt quân đội Cộng sản tại Tĩnh Cương Sơn. Hồng quân Trung Quốc đã nhiều lần bị đẩy lui khỏi địa bàn rồi lại tái chiếm thành công, tạo thành tình thế giằng co kéo dài. Có lẽ giai đoạn này cũng là lúc Mao Trạch Đông mắc bệnh lao phổi.
Mùa đông ở Tĩnh Cương Sơn cực kỳ lạnh giá, kết hợp với việc địa bàn chiếm cứ không ổn định dẫn tới việc Hồng quân Trung Quốc bị thiếu hụt nguồn cung nhu yếu phẩm trầm trọng. Tới tháng 1 năm 1929, trước tình trạng không khả quan nếu tiếp tục bám trụ lại nơi đây, Mao Trạch Đông và đồng sự phải di tản đến khu vực xung quanh Đồng Cổ và Tín Phong ở Giang Tây, Trung Quốc. Cuộc di tản khiến lòng quân sa sút, nhiều quân nhân trở nên bất tuân và bắt đầu trộm cắp; điều này khiến Lý Lập Tam và Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản trung Quốc lo lắng. Họ xem quân đội của Mao Trạch Đông giờ đây đã bộc lộ rõ bản chất là giai cấp vô sản vô lại, không thể chia sẻ ý thức giai cấp vô sản với giới vô sản thành thị. Lý Lập Tam sau đó yêu cầu ra lệnh cho Mao Trạch Đông giải tán quân đội thành các đơn vị để đi truyền bá thông điệp cách mạng. Mao trả lời rằng mặc dù đồng tình với quan điểm tuyên truyền cách mạng của Lý Lập Tam, nhưng ông ấy sẽ không giải tán quân đội cũng như không bỏ căn cứ hiện tại của mình.
Sau đó, Lý Lập Tam bị điều tới Moskov và được thay thế bằng một đội ngũ cán bộ được đào tạo tại Liên Xô, gọi là “Hai mươi tám Bolshevik”. Nổi bật nhất trong số họ là Bác Cổ và Trương Văn Thiên, những người nắm quyền kiểm soát Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mao không đồng ý với ban lãnh đạo mới, tin rằng họ nắm bắt được rất ít tình hình Trung Quốc nên sẽ không đưa ra biện pháp đúng đắn. Với sự bất đồng quan điểm này, ông trở thành đối thủ chính của họ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Vào tháng 2 năm 1930, Mao thành lập Chính quyền Xô viết tỉnh Giang Tây phía Tây Nam trong khu vực dưới sự kiểm soát của ông.
Vào tháng 11, Mao Trạch Đông gặp một cú sốc tinh thần to lớn: người vợ Dương Khai Tuệ của ông và em gái ông đã bị sát hại dã man bởi Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, khó khăn không chỉ dừng lại ở đó, đối với những vấn đề nội bộ, nhiều thành viên Xô-viết Giang Tây nhân việc Mao Trạch Đông đang sa sút tinh thần đã tố cáo ông quá ôn hòa và do đó thuộc diện tình nghi là “phản cách mạng”. Vào tháng 12, những người này đã phát động chính biến để lật đổ ông, dẫn đến sự kiện Phú Điền, trong đó những người trung thành với ông đã tra tấn nhiều người và hành quyết từ 2000 đến 3000 người bất đồng chính kiến.
Ủy ban Trung ương Đảng Cộng dản Trung Quốc sau đó được chuyển đến Giang Tây, nơi được coi là khu vực an toàn. Vào tháng 11, họ tuyên bố Giang Tây là Cộng hòa Xô viết Trung Quốc, một quốc gia độc lập do Cộng sản cai trị. Mặc dù được tuyên bố là Chủ tịch Hội đồng Dân ủy nhưng quyền lực của Mao đã bị suy giảm do quyền kiểm soát Hồng quân của ông được giao cho Chu Ân Lai.
Quân đội Quốc Dân Đảng áp dụng chính sách bao vây và tiêu diệt Hồng quân. Bị áp đảo về số lượng, Mao đáp trả bằng chiến thuật du kích chịu ảnh hưởng từ tác phẩm của các chiến lược gia quân sự cổ đại như Tôn Tử , nhưng Chu Ân Lai và giới lãnh đạo mới tuân theo chính sách đối đầu cởi mở và chiến tranh thông thường. Bằng cách đó, Hồng quân đã đánh bại thành công cuộc tiến công bao vây thứ nhất và thứ hai của Quốc dân Đảng. Tức giận trước thất bại của quân đội, Tưởng Giới Thạch đích thân đến chỉ huy chiến dịch. Ông cũng phải đối mặt với những thất bại và rút lui để đối phó với những cuộc xâm lược tiếp theo của Nhật Bản vào Trung Quốc.
Do Quốc Dân Đảng thay đổi trọng tâm sang bảo vệ Trung Quốc chống lại chủ nghĩa bành trướng của Nhật Bản, Hồng quân đã có thể mở rộng phạm vi kiểm soát của mình, cuối cùng bao gồm dân số 3 triệu người. Mao tiếp tục chương trình cải cách ruộng đất của mình. Vào tháng 11 năm 1931, ông tuyên bố bắt đầu "dự án xác minh đất đai" sẽ được áp dụng mở rộng vào tháng 6 năm 1933. Ông cũng điều phối các chương trình giáo dục và thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường sự tham gia chính trị của phụ nữ.
Tới khoảng giữa năm 1933, sự phát triển nhanh chóng của lực lượng Cộng sản Trung Quốc khiến Tưởng Giới Thạch cho rằng giờ đây Cộng sản là mối đe dọa lớn hơn quân Nhật. Ông ta quay trở lại Giang Tây và khởi xướng cuộc tiến công bao vây lần thứ năm, bao gồm việc xây dựng một "bức tường lửa" bằng bê tông và dây thép gai xung quanh bang, đi kèm với đó là các chiến dịch bắn phá từ trên không, khiến chiến thuật của Chu  n Lai tỏ ra không hiệu quả. Bị mắc kẹt bên trong, tinh thần của Hồng quân giảm sút khi lương thực và thuốc men trở nên khan hiếm. Ban lãnh đạo quyết định sơ tán.
Vào ngày 14 tháng 10 năm 1934, Hồng quân Trung Quốc đột phá phòng tuyến của Quốc dân đảng ở góc tây nam của Xô-viết Giang Tây tại Tín Phong với 85000 binh sĩ và 15000 cán bộ Đảng. Sự kiện này được gọi là “Trường Chinh”. Để trốn thoát, nhiều người bị thương và người bệnh cũng như phụ nữ và trẻ em đã bị bỏ lại phía sau, được bảo vệ bởi một nhóm du kích. Hầu hết sau đó đã bị Quốc Dân Đảng tàn sát. Khoảng 100000 người trốn thoát tiến về phía nam Hồ Nam.
Tháng 1 năm 1935, trong quãng thời gian tạm dừng giữa quộc hành quân, Mao Trạch Đông được bầu vào vị trí lãnh đạo, trở thành Chủ tịch Bộ Chính trị và trên thực tế là lãnh đạo của cả Đảng và Hồng quân, một phần vì việc ứng cử của ông được Thủ tướng Liên Xô Joseph Stalin ủng hộ. Nhấn mạnh rằng họ hoạt động như một lực lượng du kích, ông đặt ra một điểm đến: Xô viết Thiểm Tây ở miền Bắc Trung Quốc, từ đó quân đội Cộng sản có thể tập trung chiến đấu với quân Nhật. Mao tin rằng khi tập trung vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, những người Cộng sản sẽ giành được sự tin tưởng của người dân Trung Quốc, những người sẽ từ bỏ Quốc dân đảng.
Từ Tuân Nghĩa, Mao Trạch Đông đích thân dẫn quân tới Thiểm Tây. Trải qua một hành trình dài với nhiều cuộc giao tranh cũng như các khó khăn hậu cần, khi đến Xô viết Thiểm Tây Hồng quân từ 100000 người nay chỉ còn khoảng chưa tới 8000 người. Dù vậy, chiến dịch Trường Chinh đã củng cố địa vị của Mao như một nhân vật thống trị trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 11 năm 1935, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch Quân ủy. Từ thời điểm này trở đi, Mao là nhà lãnh đạo không thể tranh cãi của Đảng Cộng sản, mặc dù ông không trở thành Chủ tịch Đảng cho đến tận năm 1943.

10, Liên minh chống Nhật

Sau sự kiện Trường Chinh, quân của Mao Trạch Đông đến Xô-viết Thiểm Tây vào tháng 10 năm 1935 và định cư ở Bảo An cho đến mùa xuân năm 1936. Tại đây, họ phát triển mối liên kết với các cộng đồng địa phương, phân phối lại và canh tác đất đai, tổ chức các cụm điểm y tế và bắt đầu các chương trình xóa mù chữ. Mao Trạch Đông khi ấy chỉ huy 15000 binh sĩ, được tăng cường nhờ các cánh quân Cộng sản địa phương khác tới tập kết. Vào tháng 2 năm 1936, họ thành lập Đại học Hồng quân chống Nhật ở Diên An, qua đó đào tạo ngày càng nhiều tân binh. 
Tới tháng 1 năm 1937, họ bắt đầu "cuộc viễn chinh chống Nhật", cử các nhóm du kích vào lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát để thực hiện các cuộc tấn công du kích. Vào tháng 5 năm 1937, một Hội nghị Cộng sản được tổ chức tại Diên An để thảo luận về tình hình. Các phóng viên phương Tây cũng đến tham dự, đáng chú ý nhất là Edgar Snow , người đã sử dụng kinh nghiệm của mình làm nền tảng cho Red Star Over China , và Agnes Smedley , người có những bài viết đã thu hút sự chú ý của quốc tế đến chủ trương của Mao.
Trong giai đoạn Trường Chinh, người vợ đương thời của Mao Trạch Đông là Hạ Tử Trân bị thương do một mảnh đạn vào đầu. Cô đã đến Moskov để được điều trị y tế. Trong quãng thời gian này, Mao Trạch Đông cũng tranh thủ ly hôn vợ để kết hôn với nữ diễn viên Giang Thanh. Có nhiều nguồn tin cho rằng sau sự kiện ấy, Hạ Tử Trân đã phải chịu đựng chấn thương tâm lý tới mức vào viện tâm thần.
Mao chuyển đến sống trong một ngôi nhà hang động và dành phần lớn thời gian để đọc sách, chăm sóc khu vườn và nghiên cứu lý thuyết. Ông tin rằng một mình Hồng quân không thể đánh bại quân Nhật và rằng một "chính phủ quốc phòng" do Cộng sản lãnh đạo cần được thành lập cùng với Quốc Dân Đảng và các phần tử "chủ nghĩa dân tộc tư sản" khác để đạt được mục tiêu này. Mặc dù coi thường Tưởng Giới Thạch là "kẻ phản quốc", vào ngày 5 tháng 5, ông đã gửi điện cho Hội đồng quân sự của Quốc dân Đảng đề xuất một liên minh quân sự, một đường lối hành động do Stalin chủ trương. Mặc dù Tưởng Giới Thạch có ý định phớt lờ thông điệp của Mao Trạch Đông, nhưng những người dưới quyền của ông ta lại đồng tình với chủ trương của Mao và gây áp lực lên ông ta. Điều này dẫn đến việc thành lập Mặt trận Thống nhất với sự nhượng bộ của cả hai bên vào ngày 25 tháng 12 năm 1937.
Khi ấy, người Nhật đã chiếm cả Thượng Hải và Nam Kinh - dẫn đến vụ thảm sát Nam Kinh , một hành động tàn bạo bậc nhất lịch sử và đang đẩy chính quyền Quốc dân Đảng vào nội địa đến Trùng Khánh. Sự tàn bạo của người Nhật khiến số lượng người Trung Quốc tham gia chiến đấu cho Mặt trận Thống nhất ngày càng tăng. Từ căn cứ của mình ở Diên An, Mao Trạch Đông đã viết một số văn bản cho quân đội của mình, bao gồm Triết học Cách mạng , trong đó đưa ra lời giới thiệu về lý thuyết tri thức của chủ nghĩa Mác; Chiến tranh kéo dài , đề cập đến chiến thuật du kích và quân sự cơ động; và Về Dân chủ Mới, đưa ra những ý tưởng cho tương lai của Trung Quốc.

11. Nội chiến Quốc - Cộng lần thứ hai

Năm 1944, Mỹ cử một đặc phái viên ngoại giao mang tên Phái đoàn Dixie tới Đảng Cộng sản Trung Quốc. Những người lính Mỹ được cử đi làm nhiệm vụ đều có ấn tượng tốt. Đảng dường như ít tham nhũng hơn, đoàn kết hơn và kháng chiến chống Nhật mạnh mẽ hơn so với Quốc dân đảng. Các chiến sĩ khẳng định với cấp trên rằng đảng vừa mạnh vừa được lòng dân trên diện rộng. Khi kết thúc sứ mệnh, các mối liên hệ mà Hoa Kỳ phát triển với Đảng Cộng sản Trung Quốc dẫn đến rất ít. Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ ngoại giao và quân sự cho Tưởng Giới Thạch và lực lượng chính phủ Quốc Dân Đảng của ông ta chống lại Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) do Mao Trạch Đông lãnh đạo trong cuộc nội chiến và từ bỏ ý tưởng một chính phủ liên minh bao gồm cả ĐCSTQ. Tương tự như vậy, Liên Xô đã hỗ trợ Mao bằng cách chiếm đóng vùng đông bắc Trung Quốc , và bí mật trao vùng này cho cộng sản Trung Quốc vào tháng 3 năm 1946.
Năm 1948, dưới lệnh trực tiếp của Mao, Quân đội Giải phóng Nhân dân đã tiêu diệt lực lượng Quốc Dân Đảng đang chiếm đóng thành phố Trường Xuân . Ít nhất 160.000 thường dân được cho là đã thiệt mạng trong cuộc bao vây kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10. Trung tá PLA Zhang Zhenglu, người đã ghi lại cuộc vây hãm trong cuốn sách Bạch Tuyết, Máu Đỏ của mình , đã so sánh nó với Hiroshima : "Số thương vong gần như nhau. Hiroshima mất 9 giây; Trường Xuân mất 5 tháng." Vào ngày 21 tháng 1 năm 1949, lực lượng Quốc dân đảng chịu tổn thất nặng nề trong các trận chiến quyết định chống lại lực lượng của Mao. Sáng sớm ngày 10 tháng 12 năm 1949, quân PLA bao vây Trùng Khánh và Thành Đô trên lục địa Trung Quốc, và Tưởng Giới Thạch phải chạy trốn khỏi đại lục sang Đài Loan.

12. Lãnh đạo Trung Quốc

Mao Trạch Đông lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ giành chính quyền năm 1949, chấm dứt tình trạng quân phiệt cát cứ, thu hồi các tô giới của nước ngoài trên lãnh thổ Trung Quốc, xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng với các cường quốc; đặt nền móng cho một đất nước Trung Quốc thống nhất và bắt đầu công cuộc hiện đại hóa đưa Trung Quốc từ một nước phương Đông bị các đế quốc phương Tây chèn ép trở thành một cường quốc trên thế giới. Trong suốt 27 năm, ông và các đồng chí của mình đã kiên trì thực hiện công cuộc cải cách kinh tế - xã hội vĩ đại mang ý nghĩa sâu xa trên đất nước Trung Quốc theo hướng xóa bỏ các tàn tích trung cổ lạc hậu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho xã hội dân chủ và bình đẳng hơn dù trong quá trình thực hiện ông đã mắc một số sai lầm gây ra những hậu quả nghiêm trọng và lâu dài cho xã hội Trung Quốc. Những tổn thất, thiệt hại do những chính sách Mao Trạch Đông đưa ra, những phong trào do Mao Trạch Đông phát động một phần do sự nhiệt tình thái quá đến mức cực đoan của những cán bộ trực tiếp thực thi và của công chúng.
Từ năm 1949 đến năm 1976, Mao Trạch Đông luôn là nhân vật quan trọng nhất trong Chính quyền Trung ương Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đánh bại quân đội Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Tiếp đó Mao Trạch Đông thực hiện những kế hoạch kinh tế ngắn hạn với sự giúp đỡ của Liên Xô để xây dựng nền tảng công nghiệp cho Trung Quốc. Với mong muốn đưa Trung Quốc trở thành một siêu cường trong thời gian còn nhanh hơn cả Liên Xô từng làm, Mao Trạch Đông phát động phong trào Đại nhảy vọt và Công xã hoá, vào thời kỳ cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Đây là kế hoạch với mục tiêu nhấn mạnh biện pháp sản xuất quy mô nhỏ, sản xuất thủ công, tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội lớn chưa từng thấy với mục tiêu công nghiệp hóa nhằm đưa Trung Quốc thành siêu cường trong thời gian chỉ 10 - 20 năm. Sự nóng vội quá mức dẫn tới việc kế hoạch bị thất bại và phải hủy bỏ. Cùng với thiên tai, những chính sách kinh tế sai lầm đã gây ra một nạn đói rất lớn trong lịch sử loài người, khoảng 37,5 triệu người (khoảng 5% dân số Trung Quốc) đã chết vì nạn đói do sản xuất nông nghiệp bị đình trệ.
Sau khi giành được chính quyền, Mao Trạch Đông đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế - xã hội như cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa tất cả các doanh nghiệp tư nhân, giải tán các đảng phái chính trị cánh hữu, các hội kín, triệt hạ các băng đảng tội phạm... Sinh ra và lớn lên trong xã hội phong kiến Trung Quốc cuối thế kỷ 19 và đã chứng kiến nạn quân phiệt cát cứ cuối thời nhà Thanh, Mao Trạch Đông chịu ảnh hưởng lớn từ các bài học trong lịch sử Trung Quốc: ông tin rằng cần phải mạnh tay trấn áp mọi lực lượng chống đối thì mới có thể giữ ổn định được một đất nước rộng lớn và đông dân như Trung Hoa. Trong các cuộc cải cách của Mao Trạch Đông có hàng chục vạn địa chủ, doanh nhân, trí thức bị bắt hoặc xử tử vì bị kết tội hữu khuynh, phá hoại, phản cách mạng, tay sai của ngoại quốc, Hán gian... Đến năm 1950, trước việc Bắc Triều Tiên bị lực lượng phương Tây (dẫn đầu là Hoa Kỳ) tấn công, Mao Trạch Đông đã cử chí nguyện quân tham chiến. Lực lượng Trung Quốc đã đẩy lùi quân đội phương Tây về vĩ tuyến 38, bảo vệ được nhà nước Bắc Triều Tiên và cầm cự ngang ngửa với lực lượng phương Tây trong suốt 4 năm. Tuy không giành được thắng lợi quyết định, nhưng việc quân đội Trung Quốc có thể giao chiến ngang ngửa với lực lượng phương Tây (trong đó có Hoa Kỳ, quốc gia mạnh nhất thế giới khi đó) đã nâng cao tinh thần dân tộc của người Trung Quốc và uy tín của Mao Trạch Đông, bởi cả 100 năm trước đó quân đội nước này liên tục bại trận khi chiến đấu với phương Tây, là giai đoạn mà người Trung Quốc xem là Bách niên quốc sỉ.
Tiếp đó Mao Trạch Đông thực hiện những kế hoạch kinh tế ngắn hạn với sự giúp đỡ của Liên Xô để xây dựng nền tảng công nghiệp cho Trung Quốc. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953-1957), Trung Quốc lấy xây dựng và phát triển công nghiệp nặng làm trung tâm, gồm những ngành điện lực, than, gang thép, hóa chất... Với sự giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông  u, 246 công trình công nghiệp quan trọng, được coi là xương sống của nền công nghiệp Trung Quốc được xây dựng. Từ 1949 tới 1955, hơn 20 triệu bản in từ hơn 3.000 đầu sách khoa học và kỹ thuật (chủ yếu do Liên Xô cung cấp) được dịch và xuất bản ở Trung Quốc, tạo nền tảng cho một thế hệ trí thức khoa học mới tại Trung Quốc. Tốc độ của sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 18%. Đến năm 1957, sản lượng công nghiệp đã tăng 140%, sản lượng nông nghiệp tăng 25% so với năm 1952.

13. Phong Trào “Đại Nhảy Vọt”

Đại nhảy vọt là tên đặt cho Kế hoạch Năm năm lần thứ hai dự trù kéo dài từ 1958-1963. Mao Trạch Đông tiết lộ Đại nhảy vọt tại một cuộc họp vào tháng 1 năm 1958 tại Nam Kinh. Ý tưởng trung tâm đằng sau Đại nhảy vọt là sự phát triển nhanh của nền công nghiệp và nông nghiệp Trung Quốc nên được diễn ra song song. Công nghiệp hóa thực hiện bằng nguồn cung ứng lao động giá rẻ khổng lồ và tránh phải nhập cảng các thiết bị, máy móc nặng. Để đạt được điều này, Mao Trạch Đông chủ trương thực hiện chính sách tập thể hóa sâu rộng hơn dựa theo mô hình "Thời kỳ thứ 3" của Liên Xô trong nông thôn Trung Quốc, nơi các hợp tác xã hiện hữu sẽ được sáp nhập với nhau thành các Công xã nhân dân khổng lồ. Một công xã thí điểm được thiết lập tại Chayashan trong tỉnh Hà Nam tháng 4 năm 1958. Tại đây, lần đầu tiên, đất tư hữu bị xóa bỏ hoàn toàn và các nhà bếp công xã được giới thiệu. Tại các cuộc họp của Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là những công xã nhân dân này sẽ trở thành hình thức tổ chức chính trị và kinh tế mới khắp các vùng nông thôn Trung Quốc. Vào cuối năm, khoảng 25.000 công xã được lập lên, mỗi công xã có trung bình 5.000 hộ gia đình. Ở các công xã tự cung tự cấp này, lương và tiền được thay thế bằng công điểm (work points). Ngoài nông nghiệp, chúng kết hợp một vài dự án xây dựng và công nghiệp nhẹ. Mao Trạch Đông cho rằng sản xuất lúa gạo và thép là cột trụ chính của phát triển kinh tế. Ông tiên đoán rằng trong vòng 15 năm kể từ Đại nhảy vọt, sản lượng thép của Trung Quốc sẽ vượt qua sản lượng thép của Vương quốc Anh.
Trong các cuộc họp Bộ chính trị vào tháng 8 năm 1958, quyết định được đưa ra là sản xuất thép được ấn định tăng gấp đôi trong năm, đa số sản lượng gia tăng tới từ các lò nung thép sân vườn. Mao Trạch Đông được Bí thư tỉnh An Huy cho xem một thí dụ về một lò nung thép ở Hợp Phì vào tháng 9 năm 1958, được cho là đang sản xuất thép chất lượng cao (mặc dù thực tế thì thép tinh luyện này đã được sản xuất ở nơi khác). Phấn khích vì chuyện này, Mao Trạch Đông khuyến khích việc thiết lập các lò nung thép sân vườn loại nhỏ tại mỗi xã và tại mỗi khu phố. Nỗ lực khổng lồ từ nông dân và các công nhân khác được đưa vào để sản xuất thép từ sắt vụn. Để cung cấp nhiên liệu đốt cho các lò nung, cây rừng bị chặt bừa bãi, gây thiệt hại lớn cho môi trường thiên nhiên của địa phương. Tình trạng phá cửa nhà và bàn ghế đồ đạc để lấy củi đốt lò nung cũng xảy ra khắp nơi. Nồi, xoong, chảo, và các thứ vật dụng kim loại khác được trưng dụng để cung cấp "sắt vụn" cho các lò nung để có thể đạt được mục tiêu sản xuất. Nhiều lao động nông nghiệp bị thuyên chuyển từ thu hoạch mùa màng sang giúp sản xuất thép cũng giống như các công nhân ở nhiều nhà máy, trường học và thậm chí cả bệnh viện. Những ai có chút kinh nghiệm về sản xuất thép hoặc có hiểu biết cơ bản về luyện kim thì cũng có thể thấy được rằng sản phẩm từ các lò nung này là những đống sắt nguyên liệu phẩm chất thấp và chẳng có chút giá trị gì về kinh tế. Tuy nhiên, chính sự ngờ vực sâu đậm của Mao Trạch Đông đối với giới trí thức, niềm tin vào sức mạnh khổng lồ của giới nông dân đã khiến ông ra lệnh thực hiện nỗ lực khổng lồ này trên toàn quốc mà không hỏi ý kiến của các chuyên gia.
Nỗ lực lớn được thực hiện trong suốt Đại nhảy vọt trên phạm vi rộng như các dự án xây cất cơ bản thường được hoạch định cẩu thả, ví dụ như các công trình thủy lợi, thường được xây mà chẳng hỏi ý từ các kỹ sư được đào tạo. Hơn nữa, kinh nghiệm của các tầng lớp trí thức theo sau Chiến dịch trăm hoa đua nở đã khiến những ai biết được kế hoạch như thế là một chuyện điên rồ cũng chẳng dám lên tiếng chỉ trích. Đại nhảy vọt ngày nay được đa số mọi người, cả trong và ngoài Trung Quốc, xem như là một đại thảm họa kinh tế, thực sự đúng là một "Đại Nhảy Lùi" mà ảnh hưởng đến Trung Quốc trong nhiều năm sau đó. Khi các con số thống kê bị thổi phồng tới tay giới chức đặc trách kế hoạch, mệnh lệnh được ban ra là phải chuyển nguồn nhân lực lao động vào công nghiệp hơn là nông nghiệp. Do các đợt hạn hán và lũ lụt năm 1959-1961 kết hợp với việc quá nhiều nguồn lực bị dồn vào công nghiệp đã dẫn tới mất mùa, kéo theo đó là nạn đói. Con số người chết trong nạn đói chính thức được ghi nhận tại Trung Quốc trong những năm của Đại nhảy vọt là 14 triệu, nhưng các học giả ước tính rằng con số nạn nhân chết đói là từ 20 đến 43 triệu. Ba năm từ năm 1959 đến năm 1962 được biết như là "Ba năm Ác nghiệt" và Ba năm Thiên tai. Nhiều quan chức địa phương bị truy tố và hành quyết công khai vì báo cáo thông tin sai lệch.

14. Cách Mạng Văn Hóa

Kế hoạch tiếp theo mà Mao Trạch Đông ủng hộ là cuộc "Đại Cách mạng văn hóa vô sản" vào những năm 60 của thế kỷ 20. Có nhiều quan điểm khác nhau về Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Cách mạng văn hóa là để "đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội" nhưng cũng có quan điểm cho rằng đây là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt thất bại. Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã xóa bỏ triệt để những hủ tục còn lại từ thời trung cổ tại Trung Quốc (cúng bái để chữa bệnh, tục bó chân phụ nữ...), nhưng cũng để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Cách mạng văn hóa từ mục tiêu ban đầu là thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội đã biến thành quy chụp, tố cáo, chỉ trích, đấu tố, thanh trừng lẫn nhau trên toàn Trung Quốc. Cuộc cách mạng này làm tê liệt các hoạt động kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa của Trung Quốc; phá vỡ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc và khiến nhà nước không còn duy trì nổi trật tự xã hội; gây chia rẽ nghiêm trọng trong Đảng Cộng sản, trong bộ máy nhà nước và trong xã hội Trung Quốc; phá hủy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
Đặng Tiểu Bình nhận định Mao Trạch Đông có một phần lỗi trong việc này, nhưng phần khác là do những người thi hành cấp dưới có trình độ kém còn công chúng dễ bị kích động khiến mục tiêu đề ra bị bóp méo: "Cách mạng Văn Hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao Trạch Đông trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách mạng Văn Hóa đều do Mao Trạch Đông." Có điều đặc biệt là khi phát động "Đại nhảy vọt", Mao Trạch Đông đã hơn 60 tuổi; còn "Đại Cách mạng văn hóa" diễn ra lúc ông gần 70 tuổi; và khi quyết định thiết lập ngoại giao với Hoa Kỳ thì Mao Trạch Đông đã gần 80 tuổi.

15. Mao Trạch Đông qua đời

Mao Trạch Đông qua đời ngày 9 tháng 9 năm 1976, 10 phút sau nửa đêm ở thủ đô Bắc Kinh. Mao Trạch Đông mất vì bệnh xơ cứng teo cơ (tên khoa học: amyotrophic lateral sclerosis), ở Hoa Kỳ bệnh này thường được gọi là Lou Gehrig's hoặc Motor Neurone, cùng một căn bệnh với Stephen Hawking. Sức khỏe của Mao Trạch Đông đã rất kém trong nhiều năm và suy giảm rất rõ rệt trong thời gian vài tháng trước khi qua đời. Thi hài ông được an táng tại Đại lễ đường nhân dân. Lễ tưởng niệm ông cử hành vào ngày 18 tháng 9 năm 1976 tại quảng trường Thiên An Môn. Trong lễ tưởng niệm có 3 phút mặc niệm. Sau đó thi hài Mao Trạch Đông được đặt trong Lăng Mao Trạch Đông, mặc dù ông muốn được hỏa táng và là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên ký văn bản chính thức vào tháng 11 năm 1956 quy định tất cả những người lãnh đạo cấp trung ương sau khi chết sẽ được an táng theo nghi thức hỏa táng.

16. Di sản cách mạng

Đánh giá một nhà chính trị thời kỳ cận đại là rất khó khăn; Có thể so sánh Mao Trạch Đông với Tần Thủy Hoàng; vì họ đều là người Trung Quốc, đều là các nhà cải cách. Nếu so sánh Mao Trạch Đông với Lein cũng là xác đáng, họ đều sống ở thế kỷ 20, Mao Trạch Đông là người kiến tạo Chủ nghĩa Marx ở Trung Quốc, cũng như Lê Nin là người đặt nền móng cho Chủ nghĩa Marx ở nước Nga. Mới nhìn ta thấy Mao Trạch Đông gần như nổi bật hơn Lê Nin vì Trung Quốc có số dân gấp ba lần Liên Xô, nhưng Lê Nin có trước và đã là một tấm gương cho Mao Trạch Đông, có ảnh hưởng đối với Mao Trạch Đông.
Học giả Shinjima Junra, người Nhật Bản cho rằng: "Mao Trạch Đông không phải là nhà cách mạng theo kiểu thợ mộc – chỉ biết đục đẽo cứng nhắc, cũng không phải một nhà cách mạng theo kiểu học giả, mà là một nhà cách mạng theo kiểu quân sư mưu lược, nhiều kỹ xảo". Trong mỗi lĩnh vực, Mao Trạch Đông đều thể hiện mưu lược. Trong cuộc sống, ông có sự tự tin, nỗ lực, lý tưởng cao thượng, nhu cầu vật chất đạm bạc. Trong mưu lược quân sự, ông biết áp dụng nhiều chiến thuật đa dạng: đánh du kích, dụ địch xâm nhập, giương đông kích tây, thâm nhập vùng địch hậu, đánh công thành, chặn tiếp viện, mai phục quân để đánh chặn…
Mao Trạch Đông cũng chịu những chỉ trích về những sai lầm của ông. Theo cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội của Tân Tử Lăng, do nhà xuất bản Thư Tác Phường (Hồng Kông) ấn hành tháng 7 năm 2007 cho rằng: "Nhân dân đã thức tỉnh. Việc tiếp tục treo ảnh Mao Trạch Đông trên Thiên An Môn, tiếp tục để thi hài Mao Trạch Đông ở nhà kỷ niệm là lạc hậu so với quần chúng rồi, cần xử lý thỏa đáng đất nước ta triệt để bóng đen Mao Trạch Đông". Lý Nhuệ, cựu thư ký của Mao Trạch Đông, bị bắt giam trong thời kỳ Cách mạng văn hóa, đánh giá "Chế độ độc tài của Mao Trạch Đông còn kinh khủng hơn Stalin vì ông muốn kiểm soát não trạng của con người" và "Mao Trạch Đông vượt hơn mọi hoàng đế vì ông khiến người dân tuân lời cả trong suy nghĩ - không hoàng đế nào trên thế giới làm được vậy. Hoặc anh ủng hộ ông ta, hoặc không dám nói ra, hoặc anh tự thú trái lòng mình".
Ngày 25 tháng 10 năm 2017, trong một phiên thảo luận tại Hội đồng Quan hệ quốc tế, khi đánh giá về sức mạnh của Trung Quốc, Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nói ngắn gọn về quá trình phát triển của Trung Quốc: "Nếu nhìn vào khác biệt trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng, đó là điều tự thân Trung Quốc đã nói lên rồi. Với ông Mao Trạch Đông, Trung Quốc đứng dậy. Với ông Đặng Tiểu Bình, họ đạt được sự giàu có và bây giờ với ông Tập Cận Bình, họ mạnh mẽ".
Mao Trạch Đông còn được coi là nhà chiến thuật và chính trị xuất sắc trong cuộc Nội chiến và chiến tranh Triều Tiên, với các bài viết về quân sự đã ảnh hưởng lớn tới những người muốn tạo ra các cuộc nổi dậy cũng như tìm hiểu cách dẹp nổi dậy, và trái lại, ý thức hệ của Mao Trạch Đông thì đã bị lạm dụng và gây ra những hậu quả xấu, những chính sách bạo lực. Nhưng điều đó lại tăng thêm tầm vóc của Mao Trạch Đông trong con mắt người dân Trung Quốc. Việc sùng kính các nhà lãnh đạo vĩ đại chuyên dùng vũ lực để lập lại trật tự là một nét văn hóa ở Trung Quốc. Người dân Trung Quốc coi ông như "một vị thần báo thù đến để thanh trừng thế giới hủ bại", và vị thần đó không thể chỉ dùng những biện pháp nửa vời.
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đi đến kết luận không phải tất cả các hành động của ông đều đúng. Chủ tịch Đặng Tiểu Bình, kiến ​​trúc sư của cuộc cải cách trong những năm 1980, đã đưa ra công thức: 70% những gì Mao Trạch Đông đã làm là đúng, còn 30% là sai lầm. Ngay cả ở Trung Quốc hiện đại, theo các cuộc thăm dò, Mao Trạch Đông vẫn rất được tôn sùng trong dân chúng.
Nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 120 năm ngày sinh Mao Trạch Đông, tờ Thời báo Hoàn Cầu đã tiến hành một cuộc khảo sát đối với hơn 1000 độc giả tại 6 thành phố của Trung Quốc và nhận được kết quả là có tới 85% số người được hỏi cho rằng Mao Trạch Đông đã có công lớn trong việc đưa đất nước Trung Quốc đến những thành công như ngày nay. Những công lao của Mao Trạch Đông được họ xem là lớn hơn nhiều so với những sai lầm của ông.
Không giống như Nikita Khrushchev đã từng lên án người tiền nhiệm Joseph Stalin, chính quyền Trung Quốc không phủ nhận các chiến thuật và tư tưởng chính trị của Mao Trạch Đông. Chủ nghĩa Mao Trạch Đông vẫn là một yếu tố được công nhận trong Hiến pháp Trung Quốc và là tư tưởng chính trị quan trọng tại Trung Quốc hiện nay. Theo nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 11 vào tháng 6 năm 1981, Tư tưởng Mao Trạch Đông là "sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tắc phổ quát của chủ nghĩa Marx-Lenin và thực tiễn cụ thể của cách mạng Trung Quốc", là một hệ thống khoa học biểu trưng cho "sự kết tinh trí tuệ tập thể của Đảng Cộng sản Trung Quốc".

Kết

Trên đây là toàn bộ nội dung của bài viết Mao Trạch Đông - Mặt trời đỏ trong lòng người dân Trung Quốc. Nếu cảm thấy bài viết này hay thì hãy cho mình xin một upvote nhé. Ngoài ra, nếu có điểm nào bạn thấy chưa hợp lí hoặc muốn thảo luận thêm thì để lại cmt dưới phần bình luận nha, mình sẽ cố hết sức để giải đáp trong phạm vi hiểu biết của mình. Hẹn gặp lại các bạn trong phần tiếp theo nhé!

#Backturn